Bên bờ hạnh phúc

Tôn giáo ở Cuba phản ánh sự đa dạng của nền văn hóa Cuba. Cuba có nhiều đức tin phản ánh sự đa dạng của các yếu tố văn hóa trên hòn đảo này.

Cơ đốc giáo, được đưa tới đây bởi những kẻ thực dân Tây Ban Nha hồi đầu thế kỷ XVI, là tôn giáo lớn nhất. Sau cách mạng, Cuba đã chính thức trở thành một quốc gia vô thần và ngăn cấm hoạt động tôn giáo.

Từ Đại hội Đảng Cộng sản Cuba lần thứ 4 năm 1991, các biện pháp hạn chế đã được nới lỏng và, theo National Catholic Observer, những vi phạm trực tiếp của các định chế nhà nước vào quyền tôn giáo đã được bãi bỏ, dù nhà thờ vẫn phải đối mặt với các hạn chế trong liên lạc thư từ và điện tử, và chỉ được nhận quà tặng từ các nguồn tài trợ được nhà nước cho phép.

Nhà thờ Cơ đốc giáo La Mã hiện diện thông qua Hội nghị Giám mục Cơ đốc giáo Cuba (COCC), do Jaime Lucas Ortega y Alamino, Hồng y Tổng giám mục Havana lãnh đạo. Tổ chức này có 11 giáo khu, 56 cấp tu sĩ và 24 cấp linh mục. Tháng 1 năm 1998, Giáo hoàng John Paul II đã có một chuyến thăm lịch sử tới hòn đảo này, theo lời mời của Chính phủ Cuba và Nhà thờ Cơ đốc giáo.

Nét đặc trưng lớn nhất trong tôn giáo Cuba là sự hiện diện của rất nhiều đức tin ở mọi thể loại. Sự đa dạng này có nguồn gốc từ người Tây và Trung Phi, những người đã được đưa tới lao động tại Cuba, và trên thực tế đã tái tạo các tôn giáo Châu Phi của họ. Họ tạo ra nó bằng cách kết hợp các tôn giáo cũ với các yếu tố đức tin trong hệ thống tôn giáo Cơ đốc, với kết quả là một thứ tôn giáo rất giống với Umbanda của Brazil.

Đức mẹ Đồng trinh Cobre

Cơ đốc giáo thường được thực thi cùng Santería, một sự pha trộn của Cơ đốc giáo cùng tôn giáo khác, chủ yếu là từ Châu Phi, các đức tin gồm một số tôn giáo thờ cúng. Vị thánh bảo hộ của Cuba – La Virgen de la Caridad del Cobre (Đức mẹ Đồng trinh Cobre) là một thứ đa thần giáo với Santería goddess Ochún. Lễ hội tôn giáo lớn "La Virgen de la Caridad del Cobre" được người Cuba tổ chức hàng năm ngày 8 tháng 9. Các tôn giáo khác cũng hoạt động gồm Palo Monte, và Abakuá, phần lớn các nghi thức tế lễ của chúng được thực hiện bằng các ngôn ngữ châu Phi.

Văn hoá ẩm thực Cuba – Sự pha trộn giữa các vùng văn hoá ẩm thực

Ẩm thực Cuba là sự hòa trộn tuyệt vời giữa hương vị cay nồng của Tây Ban Nha vùng biển Caribê dồi dào hải sản và trái cây nhiệt đới pha lẫn chút hoang dã châu Phi.

Cuba là một quần đảo nằm tại vùng biển Caribê, nơi có nền văn hóa đa dạng: văn hóa của thổ dân bản xứ, dân Tây Ban Nha nhập cư và những người châu Phi xưa kia là nô lệ. Vì thế, ẩm thực Cuba là sự hòa trộn tuyệt vời giữa hương vị cay nồng của Tây Ban Nha, vùng biển Caribê dồi dào hải sản và trái cây nhiệt đới pha lẫn chút hoang dã châu Phi.

Món ăn của Cuba sử dụng kỹ thuật chế biến theo kiểu Tây Ban Nha với một số ảnh hưởng về gia vị và mùi hương của ẩm thực vùng Caribbean.

Một bữa ăn truyền thống của người Cuba sẽ không bao giờ được phục vụ theo kiểu từng món một mà tất cả thức ăn sẽ được đưa ra cùng lúc. Bữa ăn đặc trưng gồm chuối lá, đậu đen (black bean) và gạo, ropa vieja (thịt bò thái nhỏ), bánh mì Cuba, thịt lợn với hành, và hoa quả nhiệt đới. Đậu đen, gạo, được gọi là moros y cristianos (hay nói gọn là moros) và chuối lá là thực phẩm chủ lực trong bữa ăn của người Cuba. Nhiều món thịt được nấu chín từ từ với nước chấm nhạt.

Tỏi, thìa là Ai Cập, oregano và lá nguyệt quế là các loại gia vị được sử dụng nhiều nhất để tăng hương vị cho món ăn.

Paella Habana

Món ăn đặc trưng của Cuba là Paella Habana. Đó là dạng cơm hơi nhão, nặng mùi nghệ, nấu chung với chem chép, nghêu để cả vỏ, mực, tôm. Món ăn này mang đặc trưng rõ rệt của ẩm thực Tây Ban Nha

Theo cinet.gov

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *