Ký
Người từ miệt Tiền Giang đổ về Hậu Giang làm ăn thì đã có quá trình hơn 300 năm nay, nhưng có ba làn sóng di dân lớn. Làn sóng thứ nhất là khi thực dân Pháp chiếm ba tỉnh Nam kỳ. Thành quả xây dựng nền văn minh miệt vườn qua 100 năm của miệt Tiền Giang bị tàn phá nặng nề. Nguyễn Đình Chiểu viết : "Bến Nghé, cửa Tiền tan bọt nước/ Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây… ". Những làng quê trù phú, những ruộng vườn thành khoảnh… bị gót giày quân xâm lược giẫm nát, dân miệt Tiền Giang phải bồng bế nhau lên những chiếc ghe cui, ghe bầu chạy giặc về miệt Hậu Giang. Làn sóng thứ hai là cơn bão năm Thìn (1904) và tiếp theo là nạn cào cào tàn phá hoa màu vào đầu thế kỷ 20. Thiên tai địch họa đã đẩy dân miệt Tiền Giang vào cảnh đói khổ, và họ bồng chống nhau đi về miệt Hậu Giang. Làn sóng thứ ba là đợt hạn hán năm 1978 – 1979, làm cho vùng Gò Công, Bến Tre, Cửu Long mùa màng bị thất bát nặng nề liên tiếp hai, ba năm. Thế là họ cũng bồng bế nhau chạy đói về miền Hậu Giang. Người viết bài này đã chứng kiến trận di dân thứ ba. Trên sông Bạc Liêu năm đó dày đặc ghe xuồng, bất kể ngày đêm. Số lượng ghe xuồng nhiều đến cỡ phải liệt vào cấp binh đoàn. Các xóm làng vùng Hậu Giang tràn ngập dân Tiền Giang. Họ đến xin làm mướn, bất cứ làm việc gì. Người có một ít của cải thì chở tủ, bàn, đồng hồ… xuống đổi gạo, đổi khoai. Thậm chí, người ta đổi một cô gái để lấy vài táo gạo. Chính vì thế mà xứ Bạc Liêu bây giờ có rất nhiều nàng dâu từ miệt Tiền Giang được gả chồng vào cái dịp khốn khổ, khốn nạn ấy.
Ông nội tôi cũng vốn là dân Tiền Giang lưu lạc về đây. Thuở sinh tiền, trong những buổi nhậu độc ẩm, ông khề khà giải thích lý do vì sao khi có hoạn nạn là dân miệt Tiền Giang hay tìm về Hậu Giang. Là vì ở Hậu Giang đất rộng người thưa, dồi dào sản vật, rất dễ kiếm sống. Hơn nữa, dân Hậu Giang hiếu khách không đâu bì kịp. Vào nửa đầu thế kỷ 20 trở về trước, nếp nhà của người Hậu Giang là những căn nhà gỗ ba căn, trước nhà bao giờ cũng có 2 – 3 bộ ngựa gõ dày một tấc để tiếp khách. Khách đến nhà bất luận thân sơ, quen lạ, đều được gia chủ têm trầu mời dùng, đãi cơm rượu ngày ba bữa. Đã thế, họ còn chỉ chỗ đất tốt cho khai phá, cho mượn trâu để cày bừa. Việc chứa khách trong nhà 2 – 3 năm là chuyện bình thường. Đặc biệt, người ta hay chứa trong nhà những ông thầy nghề võ, thầy dạy chữ Nho, thậm chí là cả thầy bùa lỗ ban. Tất nhiên, tính cách phóng khoáng, hào hiệp ấy vốn có căn nguyên của nó. Vùng Hậu Giang xưa ruộng đồng cò bay thẳng cánh, tôm cá trên sông rạch hằng hà, việc khách ở trong nhà bao lâu cũng chẳng làm ảnh hưởng đến vật chất của chủ nhà. Người mới đến khẩn hoang không mâu thuẫn với quyền lợi của người cũ, mà ngược lại, còn hỗ trợ nhau làm ăn. Ví như cấy một công ruộng thì chim, chuột cắn phá hết, nhưng cấy 100 công thì sự phá hoại bị phân tán, và thiệt hại cho mỗi gia đình không đáng kể. Xóm làng càng đông thì thú rừng và bọn trộm cướp không dám bén mảng. Chính vì thế mà hình thành tập quán hiếu khách, lối sống phóng khoáng, hào hiệp đặc biệt của người Hậu Giang.
Ông nội tôi kể, đời thương hồ của ông tuy cực mà vui lắm! Những đêm trăng thanh gió mát, đậu ghe ở các vàm sông đợi nước, khách thương hồ cất lên những điệu hò tự sự về cuộc đời tha phương cầu thực của mình. Cảm được nỗi lòng ấy, trên bờ, có ai đó ra bờ sông hò đáp lại. Sau đó, ghe xuồng tụ lại một nhiều thêm. Trên bờ sông, người trong các xóm làng heo hút kéo ra đông hơn, hình thành hai phường hò đối đáp nhau. Sau những trận "hò chiến" như thế, có khi khách thương hồ tìm được bến đậu rồi nên nghĩa vợ chồng, nên tình thủ túc…
Quá trình di chuyển của khách thương hồ từ miệt Tiền Giang về Hậu giang là quá trình hai miệt "cấy người" vào nhau. Ông nội tôi bảo, khi gặt mướn cho nhà ông cố ngoại tôi, thấy ông nội tôi giỏi dắn lại thật thà nên cố ngoại tôi kêu vào ở rể. Khi ông nội tôi ra riêng, trở thành địa chủ manh (ruộng nhỏ, manh mún), năm nào cũng đón bà con quê cũ ở Tiền Giang về nhà ở để gặt mướn. Trong nhóm người đó có má tôi sau này. Người Hậu Giang cũng chẳng hề chê người Tiền Giang, bởi câu hò này đã nói lên điều đó : "Mẹ mong gả thiếp về vườn/ Ăn bông bí luộc, dưa hường nấu canh". Theo câu hát đó, cô Út tôi được gả theo dượng Út về miệt Tiền Giang. Ban đầu, giữa miệt Tiền Giang và Hậu Giang chỉ có mối quan hệ làm ăn, dần dần có thêm mối quan hệ máu mủ. Người ta đi làm ăn cũng là để thăm nom nhau rồi nghiễm nhiên trở thành khách thương hồ.
Khi tôi kết thúc bài viết này cũng là lúc gió bấc rao ngọn. Tại các vàm sông, các đầu kinh thủy lợi của Bạc Liêu, khách thương hồ tất bật khiêng mui ghe xuống xuồng để "hồi cố thổ" cho kịp đón Tết. Giờ đây, kinh tế của miệt Tiền Giang đã phát triển, nhưng không hiểu vì sao vẫn còn nhiều kiếp đời nổi trôi, tha phương cầu thực? Giải thích thắc mắc của tôi, một ông lão bới tóc củ tỏi, người Tiền Giang, bảo : "Kinh tế gia đình của qua bây giờ không cần phải đi làm mướn. Nhưng hễ tới mùa gió chướng là cái máu lang bạt kỳ hồ nó nổi lên, nôn nao xuống xuồng rong ruổi về miền Hậu Giang. Gặt mướn và mua bán hàng bông trên ghe là cái cớ để đi chơi, để thăm người cũ, chốn cũ ấy mà!". Nghe ông lão nhắc cái máu lang bạt kỳ hồ tôi mới nhớ. Dân châu thổ sông Cửu Long chằng chịt sông ngòi chúng tôi mới 7 – 8 tuổi đã nhảy ùm xuống sông, áp lồng ngực chồm lên ngọn sóng, gọi là giỡn sóng. Nào có hay đâu, chính lúc ấy, cái hồn sông nước đã nhập vào hồn người, làm nên cái máu me lang bạt trên sông nước của con người. Những kiếp đời khách thương hồ ra đời từ dòng máu ấy. Nó nối liền hai miệt Tiền Giang và Hậu Giang mến yêu, làm nên cái thẳm sâu của nền văn minh sông nước Nam bộ.
PHAN TRUNG NGHĨA – SCLO