Tiểu thuyết "Đất rừng phương Nam" chính là tác phẩm nổi bật nhất trong quá trình sáng tác của Đoàn Giỏi. Bởi, bối cảnh câu chuyện rất đặc trưng của vùng Tây Nam bộ. Với rừng tràm bạt ngàn, dòng sông mênh mông, con đò bập bềnh, tôm cá đầy đàn, Đoàn Giỏi như gửi trọn vào tác phẩm của mình. Đất rừng phương Nam đã mang đến người đọc nhiều thú vị về bối cảnh, con người, tập tục văn hóa của vùng nông thôn Nam bộ. Nội dung câu chuyện cũng vậy, Đoàn Giỏi chỉ xoay quanh ở vùng đất Nam bộ. Ông mượn hình ảnh một cậu bé bị lưu lạc trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp ở Nam bộ để giới thiệu đất rừng phương Nam. Nơi đó, một vùng đất vô cùng giàu có, hào phóng và hùng vĩ với những con người trung hậu, trí dũng, một lòng một dạ theo kháng chiến. Tác phẩm gần như tập hợp tất cả đất rừng và người phương Nam. Có thể nói, "Đất rừng phương Nam" của Đoàn Giỏi như một xã hội của miền sông nước Tây Nam bộ thu nhỏ. Bởi ở nơi đó, người đọc đã tìm thấy hình ảnh người dân của vùng đất phương Nam từ sông Tiền, sông Hậu trải dài đến Kiên Giang – Rạch Giá, rồi xuống tận rừng U Minh, sau đó dừng lại ở Năm Căn – Cà Mau. Bối cảnh trong "Đất rừng phương Nam" là cả một đất trời thiên nhiên ưu đãi, cánh đồng bát ngát mênh mông, sóng nước rì rầm, rừng rậm bạt ngàn trù phú, thú rừng hoang dã muôn loài… Sự tài tình của Đoàn Giỏi là như tái tạo lại bối cảnh sông nước, con người của thuở ông cha ta còn mang gươm mở cõi.
Từ tiểu thuyết "Đất rừng phương Nam", Hãng phim truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh (TFS) đã sản xuất thành bộ phim "Đất phương Nam" dài 11 tập. Nguyễn Vinh Sơn viết kịch bản và đạo diễn. Hội Điện ảnh Việt Nam đã trao giải A cho đạo diễn vào năm 1997. Rồi không dừng lại ở sự đón nhận của khán giả Việt Nam, bộ phim "Đất phương Nam" đã xuất khẩu sang Mỹ và được đông đảo khán giả Mỹ đón nhận.
Bộ phim "Đất phương Nam" được xem là một sự kiện hiếm hoi đối với các nhà làm phim ở nước ta. Vì bộ phim này là phim truyện Việt Nam lần đầu tiên được xuất khẩu ra nước ngoài. Trong tập tiểu luận – phê bình "Tiếng vọng những mùa qua", nhà lý luận phê bình Nguyễn Thị Thanh Xuân đã nhận định về Đoàn Giỏi qua "Đất rừng phương Nam" : "Có mảnh đất sinh ra những nhà văn, và có những nhà văn từ trang viết đã biến miền quê riêng của mình thành miền quê chung trong tâm tưởng bao người… Với Đoàn Giỏi, tôi nghĩ rằng ông đã đón nhận được cái hay từ nơi đó… Ông đã đem đến cho bạn đọc cả nước những hiểu biết và tình cảm về một vùng đất trước đó xa ngái, hoang sơ trong hình dung của mọi người… Ông đã xây dựng lên những nhân vật lòng đầy nghĩa khí mà tinh tế và giàu chất văn hóa"…
Những truyện ngắn "Chuyến xe thổ mộ", "Tiếng gọi ngàn"… là một trong những tác phẩm Đoàn Giỏi viết sau giải phóng. Người đọc càng dễ dàng nhận ra sự thay đổi trong sáng tác của ông. So với những ngày đầu trên trang viết của Đoàn Giỏi, những tác phẩm ra đời sau giải phóng lại có phần mạnh mẽ hơn, điêu luyện hơn, ngập tràn cảm xúc hơn. Những truyện ngắn "Những chuyện lạ về cá" (1981), "Tê giác trong ngàn xanh" (1982)… cũng thế. Nó luôn tạo cho người đọc một sự day dứt, suy nghĩ, chiêm nghiệm về những gì mà tác giả đã viết, đã bộc bạch qua từng câu chữ.
Ở Đoàn Giỏi còn có đặc điểm độc đáo khác nữa là hay hoài niệm về quê hương Tiền Giang – nơi chôn rau cắt rốn của mình. Cho dù sinh sống ở đâu, Đoàn Giỏi cũng luôn hướng về quê hương. Rồi từ những nỗi nhớ quê hương da diết ấy, Đoàn Giỏi như gửi tâm trạng mình vào văn chương, biến thành những tác phẩm mộc mạc, gần gũi nhưng cũng rất trau chuốt và ly kỳ. Sự tài tình ở Đoàn Giỏi là đã biến những cái hay, cái đẹp về con người trên mảnh đất Tiền Giang của mình thành tác phẩm đặc sắc chuyên biệt, cụ thể đến sắc bén. Trong bài ký "Nhớ Tiền Giang", Đoàn Giỏi đã viết :
" …Những năm xa nhà, nhớ quê hương, nhiều khi tôi giở sách cố xem ngày xưa các cụ đánh giá thế nào về những con người trên vùng đất mình sinh trưởng? Nói chung là dân Nam bộ, dân đồng bằng sông Cửu Long vốn phóng khoáng, hào hiệp, trọng nghĩa, khinh tài… Tất cả những đức tính ấy đều do thiên nhiên vô cùng phong phú ưu đãi, hun đúc nên.
Tuy nhiên, dân Định Tường còn có những đặc điểm khác những nơi khác. Là đàn ông sính văn thơ, đàn bà con gái chăm chỉ khéo léo mà thích chưng diện, thích đi coi hát, còn thanh niên thì ưa đàn ca, thích luận đàm nơi quán tiệm. Lắm lúc, tôi nghĩ lớp trẻ bây giờ mà thích thú, bật cười một mình. Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh! Là nói cho vui vậy, chứ không vậy, không có cái tính nghệ sĩ gốc của ông bà đó, không phải là đất phát tích của cải lương thì làm gì bật lên ở Nam kỳ và cả nước các dĩa hát với các giọng ca Phùng Há, Năm Phỉ, Ba Du, Tư Xe, Bảy Nam… Thì làm gì có một soạn giả Trần Hữu Trang ở Phú Kiết – con người nho nhã như thư sinh, ra Hà Nội cũng mặt bộ quần áo bà ba trắng, trước khi viết "Đời cô Lựu", "Tô Ánh Nguyệt" đã sáng tác những bài ca quốc sự, truyền cho dân tài tử "chơi" ở các đám giỗ, các tiệm hớt tóc trong những năm thập niên ba mươi khắp Mỹ Tho và các tỉnh lân cận… Đâu phải ngẫu nhiên mà có Trần Văn Khê – con ông Bái Ba ở chợ Giữa, Vĩnh Kim – một gia đình từ cha con, anh em đều giỏi nhạc… Và cũng tại đó, đầu tiên trên toàn quốc, thành lập gánh hát toàn con gái – gánh Đồng Nữ của cô ba Diện, chuyên trình diễn những tấm gương ái quốc, những tuồng lịch sử chống xâm lang… Mỹ Tho còn có nhạc sĩ Hoàng Việt ở An Hữu, với nhiều ca khúc đầy tính lạc quan yêu đời… Nhạc sĩ Việt Nam đầu tiên sáng tác nhạc giao hưởng ở Bun-ga-ri về, anh hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ tại Cái Bè… Qua Tân Mỹ Chánh không thể nào không nhớ "Vành mâm xôi, đề thằng Lạc!" cùng với những bài thơ nhạo báng hội tề nổi tiếng của Học Lạc… Xưa thợ khắc, thợ chạm Mỹ Tho lên cốt Phật trứ danh, ngày nay ta có Nguyễn Hải – nghệ sĩ điêu khắc trẻ tài năng, đầy triển vọng của cả nước, gốc Cái Bè… Ta lại có họa sĩ Nguyễn Sáng – người Chợ Gạo, một nghệ sĩ tài hoa, sáng tạo nhiều tác phẩm hiện đại đầy tính dân tộc, đã vượt tầm cỡ quốc gia, lấp lánh giữa trời sao tài năng hội họa thế giới… ".
Đoàn Giỏi cũng yêu cả mảnh đất nơi mình chân đến, nơi mình đang sống như chính mảnh đất nơi mình chào đời. Ông từng bộc bạch với bạn bè về tâm trạng của mình : Những ngày ở Hà Nội, tôi rất nhớ Tiền Giang, Sài Gòn. Khi về Sài Gòn, tôi lại nhớ Hà Nội. Một nửa đời tôi gần như đã gắn bó với Hà Nội… Trong truyện ký "Chim bay trên trời Hà Nội" của Đoàn Giỏi, ông đã viết : …Chiều nay, giữa thủ đô Hà Nội, ngẩng trông những bầy chim vần vũ như những đám mây nối nhau bay về phương Nam, tôi lại nghĩ và nhớ đến bạn. Phải nói rằng, năm nào cũng vậy, lúc Hà Nội sắp vào đông, hồ như thấy những bầy chim sáo từ Xi-bê-ri bay tránh rét về qua trên bầu trời thủ đô, nghe tiếng chim rộn rã và tiếng quạt cánh vù vù của chúng là tôi cứ nghĩ ngay rằng những con chim này nay mai, trên đường còn tiến mãi vào Nam rồi chúng sẽ bay qua Sài Gòn, qua nơi mái nhà bạn ở…
Yêu quý và tự hào về quê hương của mình đã đành, Đoàn Giỏi còn yêu thiết tha cả những nơi mình đã đặt chân đến. Phải chăng với Đoàn Giỏi, nơi nào cưu mang ông, nơi nào thú vị trong lòng ông thì nơi đó là quê hương, nỗi nhớ và những kỷ niệm khó quên của ông. Cho nên, những ngày đặt chân sang đất Nga, Đoàn Giỏi lại sống trong ngập tràn ngàn cảm xúc của một đất nước vừa thoát khỏi chiến tranh. Từ nguồn cảm xúc ấy, ông đã viết thành truyện ký "Mùa thu Nga – thăm một vài nơi kỷ niệm".
"Năm 1957, tôi đã sang thăm Liên Xô. Mười lăm năm, giờ đây trở lại, tôi có cảm giác như mình đã gặp lại ở đây một người yêu cũ…
…Cổ thành Bơ-rêtx một chiều xám mây mù. Trời lạnh. Vượt quảng trường, chúng tôi lần lượt qua con sân rộng có hai lối dẫn vào khu lưu niệm. Mặt sân và cả hai lối đi đều trải bằng một thứ vôi vữa cát màu hồng đỏ! 823 chiến sĩ bảo vệ thành Bơ-rêtx, chỉ còn biết tên được có 201 người đã tử thủ, bảo vệ đồn biên phòng này trong ngày tháng khi bọn phát xít Hít-le bất ngờ từ Ban Lan tấn công vào Liên Xô. Máu các chiến sĩ đã đổ xuống nhuộm đỏ đất này. Chúng tôi kính cẩn đặt vòng hoa dưới tượng đài lưu niệm và cúi đầu mặc niệm trước ngọn lửa bất diệt vẫn cháy mãi ngày đêm nơi này. Hai nam nữ thiếu niên quàng khăn đỏ, những thanh thiếu niên Côm-xô-môn, những học sinh giỏi được danh dự thay nhau hứa đảm đương lấy trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc ngày mai như cha anh đã kiên cường bất khuất chống giữ nơi đây. Chúng tôi hi sinh nhưng không bán lương tâm. Đó là dòng chữ khắc trên viên gạch tìm thấy trong lâu đài đổ nát. Ngày 20 tháng 4 năm 1941, một chiến sĩ vô danh đã viết Tôi hy sinh mà không đầu hàng! Kính chào Tổ quốc!… "
Qua ba truyện ký mà Đoàn Giỏi đã viết về Tiền Giang quê hương, về Hà Nội – vùng đất mà ông đã từng sinh sống sau những ngày tập kết, về đất nước Nga vừa thoát khỏi chiến tranh đều khắc một dấu ấn chung. Cái chung ấy chính là nét nhân bản ở con người. Hình ảnh con người luôn là niềm tự hào và nỗi nhớ trong từng tác phẩm của Đoàn Giỏi. Ở mỗi nơi, mỗi hoàn cảnh, con người đều hình thành và tạo nên sự vẻ vang cho từng vùng đất.
Một điều đáng buồn, Đoàn Giỏi đã để tác phẩm của mình thất lạc quá nhiều. Và chính khi còn sống, Đoàn Giỏi cũng nhìn nhận ra khiếm khuyết này, nhiều lúc tác phẩm của ông, bạn bè và độc giả nhớ nhiều hơn là chính ông.
III. TÁC PHẨM DANG DỞ
Cuộc sống đôi lúc bế tắc do hoàn cảnh khó khăn, do bệnh tật, nhưng Đoàn Giỏi vẫn viết và vẫn buông nguồn cảm xúc tràn đầy trên từng trang giấy, trong từng tác phẩm của mình.
Những ngày cuối đời, sức khỏe của Đoàn Giỏi rất kém. Nhưng nhà văn thường luôn mang theo bên mình đề cương tiểu thuyết "Núi cả cây ngàn" mà ông đã ấp ủ từ lâu. Ở Đoàn Giỏi bao giờ cũng vậy, ý tưởng, nguồn cảm xúc luôn vây quanh và ở mãi bên cạnh. Chắc chắn, ngoài quyển đề cương tiểu thuyết ấy ra, Đoàn Giỏi còn có nhiều vấn đề khác cần phải đưa vào tác phẩm, khi đó nỗi lòng ông cứ luôn trăn trở với cuộc sống, với bao con người luôn trắc trở với số phận.
Nội dung tiểu thuyết "Núi cả cây ngàn" bắt đầu từ cuộc đời của một cô gái bị bỏ rơi trong rừng sâu. Cuộc sống nơi rừng rú hoang sơ hiểm trở đã tạo cho cô gái một tính cách đặc biệt. Cô gái ấy chính là hình tượng tiêu biểu của những con người ở vùng đất hoang sơ này. Bên cạnh nội dung câu chuyện ly kỳ độc đáo ấy, bối cảnh diễn ra trong tác phẩm "Núi cả cây ngàn" của Đoàn Giỏi còn là một cái nhìn khác. Đan xen những tình tiết ly kỳ hấp dẫn của rừng núi, của động vật hoang dã, Đoàn Giỏi còn phản ảnh lại thời kỳ thực dân Pháp bắt đầu xâm lược nước ta. Nơi rừng sâu núi thẳm ấy chính là khu căn cứ cho cách mạng, hình ảnh cô gái ấy lại tượng trưng cho nhân dân miền Tây Nam bộ đứng lên chống giặc ngoại xâm.
Ở "Núi cả cây ngàn" không chỉ phảng phất hình ảnh người dân của miền Tây Nam bộ trong thời kỳ khai hoang mở cõi. Không chỉ là sự độc đáo về nghĩa khí, lòng hào hiệp và khí phách của người dân miền Tây Nam bộ trong thời kỳ đầu chống thực dân Pháp. Mà Đoàn Giỏi còn đưa độc giả vào những cuộc phiêu lưu đến nhiều nơi, nhiều vùng của vùng đất Nam bộ trong thời kỳ hoang sơ.
Chuyến phiêu lưu ấy như một cuộc hành trình xuôi về Đồng bằng sông Cửu Long với vùng đất trời hoang vu trù phú, với cánh đồng hoang sơ bạt ngàn, với những khu rừng âm u tĩnh mịch, với những dòng sông mênh mông phẳng lặng.
Thế nhưng do bệnh tật, do chứng bệnh gan hành hạ nên Đoàn Giỏi chưa kịp hoàn thành tác phẩm ấy. Chính vì vậy, mãi đến giờ phút tận cùng của cuộc đời, "Núi cả cây ngàn" vẫn còn ở dạng đề cương phác thảo. Cho đến lúc ra đi, "Núi cả cây ngàn" cũng chỉ là những ý tưởng, những tình tiết, những câu chuyện đã được xâu chuỗi nhưng không thể thành hình.
Cả cuộc đời của Đoàn Giỏi, ông cứ đi và cứ viết. Những trang viết của Đoàn Giỏi bao giờ cũng mang đậm chất hoang sơ và tính sáng tạo dựa trên vốn sống và cảm nhận tinh tế. Năm 1989, Đoàn Giỏi – một trong những nhà văn xuất sắc, tiêu biểu của Nam bộ – đã vĩnh biệt độc giả. Ông ra đi trong sự tiếc thương vô hạn của đồng đội, đồng nghiệp và của độc giả khắp nơi.
Huỳnh Mẫn Chi – Theo SCL
———————————————–
Chú thích :
(1): Trích từ “Lời bạt của Chế Lan Viên” qua tác phẩm “Rừng đêm xào xạc” của Đoàn Giỏi – NXB Trẻ – Năm 1987
(2): Trích tài liệu từ truyện ký “Nguyễn Huy Tưởng, một người thầy, một người bạn, một người anh… " của Đoàn Giỏi.
(3): Trích từ bài giới thiệu của Chế Lan Viên qua tác phẩm “Rừng đêm xào xạc” của Đoàn Giỏi – NXB Tiền Giang – năm 1987
(4): Trích nguyên văn truyện ngắn “Cây đước Cà Mau” của Đoàn Giỏi
(5): Tài liệu trích nguyên văn từ truyện ký “Nhớ Tiền Giang” của Đoàn Giỏi.
(6): Tài liệu trích nguyên văn từ truyện ký “Chim bay trên trời Hà Nội” của Đoàn Giỏi.
(7): Tài liệu trích nguyên văn từ truyện ký “Mùa thu Nga – thăm một vài nơi kỷ niệm”.