“Cháu chào cụ” – tôi lúng búng.
“Ờ, ngoan. Năm tuổi học chữ được rồi đấy. Bà không câu nệ thì sắm cho cậu quyển vở, cây bút, đưa sang tôi”. Mẹ tôi vội vàng đỡ lời cụ: “Ôi, thế thì phúc đức cho cháu quá. Được cụ dạy dỗ còn gì bằng. Hai mẹ con tôi đi một quãng ngoái lại vẫn thấy cụ vịn hai tay vào gậy, nheo nheo mắt nhìn theo.
Thế là mấy hôm sau, tôi trở thành học trò của cụ đồ.
Cùng học với tôi còn dăm đứa trẻ nữa trong xóm, nhưng tôi là bé nhất.
Lớp học ở nhà cụ đồ không có bàn ghế. Sân gạch, hè gạch, chúng tôi cứ việc ngồi bệt xuống sân kê sách vở lên hè. Suốt buổi học tôi ngồi thu lu một góc, tập nhận mặt từng chữ trong bảng chữ cái. Rồi lấy bút chấm mực, mắm môi mắm lợi tô theo những chữ cụ đồ viết sẵn trong vở bằng bút chì. Mấy đứa kia mải nghịch, bày trò cấu chí nhau, thỉnh thoảng lại đánh đổ mực ra hè. Quần áo, sách vở, mặt mũi chúng nó lem nhem những mực là mực.
Trong lúc chúng tôi ôn bài hay tô chữ thì cụ đồ lặng lẽ ngồi đan. Cụ đan rổ rá dần sàng, đan quạt, đan cả cái rế để bắc nồi… Nghĩa là tất tật đồ dùng hàng ngày bằng tre ở trong nhà, cụ đan được tuốt. Những thứ cụ làm vừa đẹp vừa bền, dùng cả đời cũng không hỏng. Người trong xóm thỉnh thoảng đến đặt hàng, cụ có thêm đồng ra đồng vào, có khi bằng mấy dạy học.
Lâu lâu cụ ngừng tay, kiểm tra xem bọn tôi học hành thế nào. Những đứa tô chữ xiên xẹo, đánh dây mực ra sách, cụ bắt đặt bàn tay úp sấp xuống hè gạch. Cụ vừa nhăm nhăm cái thước kẻ vừa hỏi: “Hậu đậu à? Quáng gà à? Nước đổ đầu vịt à? Muốn làm thầy hay làm tớ thiên hạ”?…
Dứt một câu, cái thước trên tay cụ vút xuống một nhát. Năm ngón tay thằng học trò trên nền gạch giãy lên. Thế mà đâu lại hoàn đấy. Mực vẫn đổ. Chữ vẫn xiên xẹo. Đánh vần thì “bê – o – bo – huyền – bà”…
Chỉ có tôi là không bị cụ phạt theo kiểu đó. Cụ liếc nhìn vào vở của tôi một thoáng, rồi lẳng lặng quay ra.
Mùa hè năm ấy, cụ đồ Nhưng ốm một trận thập tử nhất sinh. Khi cụ nhúc nhắc dậy được, bọn tôi lại lục tục kéo đến. Cụ xọp đi ghê quá, chỉ còn da bọc xương. Ngồi hí hoáy đan ở góc sân, lưng cụ còng gập, hai đầu gối nhọn nhô lên quá tai. Cụ không đan rổ rá dần sàng nữa, mà chuyển sang đan vỉ ruồi.
Những cái vỉ ruồi hình tam giác, hình vuông, hình lá sen, cả hình trái tim…
Mỗi cái vỉ ruồi giá một hào.
Năm nay, không hiểu ruồi ở đâu nở ra nhiều quá. Đánh thuốc đĩa nước cơm, ruồi bu vào chết như xôi đậu đen, nhưng vẫn không hết. Nhà nào cũng cần thêm vài cái vỉ ruồi.
Tôi đã nhận mặt xong hai mươi tư chữ cái, ghép được vần, bập bẹ đọc chữ, thuộc lòng bản cửu chương.
Mấy đứa cùng học cụ đồ “trình độ” ngấp nghé như nhau. Nhưng tụi kia vẫn nghịch, vẫn bị cụ đồ phạt. Chỉ khác là bây giờ cụ không hỏi nữa, hơi cụ yếu rồi. Mấy đứa học trò cũng ranh ma hơn. Mỗi lần cụ vụt thước xuống, chúng rụt ngay tay lại. Lần nào chúng cũng nhanh hơn cụ. “Cạch”! “Cạch”! “Cạch”! Tiếng cái thước gỗ đánh hụt xuống nền gạch.
Một lần, đang giữa buổi học, mẹ tôi ghé sang nhà cụ để trả tiền học cho tôi. Mẹ tôi chào cụ, nhưng hình như cụ không nghe thấy. Cụ cứ lẳng lặng đập ruồi. Hồi này cụ không đan nữa mà suốt ngày chỉ ngồi đập ruồi. Mẹ tôi khép nép ngồi xuống hè nhìn cụ. Cụ ngồi xổm, đầu gối quá tai, tay giơ chiếc vỉ ruồi nhúc nha nhúc nhắc quanh sân. Đập chết con ruồi nào, cụ lại nhặt cái xác của nó cẩn thận bỏ vào cái lọ thủy tinh mang theo bên cạnh. Hồi lâu, ruồi vãn, cụ đổ ruồi trong lọ ra, lẩn mẩn đếm từng con. Có đến cả trăm xác ruồi chết khô. Đếm xong lại cất vào lọ, cầm vỉ lên, nhúc nhắc đập tiếp. Cụ đập cả những cái đốm nắng lọt qua vòm lá cây lay lay trên sân…
Thỉnh thoảng cụ ngẩng lên nhìn. Đôi tròng mắt bạc phếch, xa vắng. Cụ không nhận ra mẹ tôi. Hình như cụ quên bẵng cả tụi học trò.
“Cụ lẫn rồi” – mẹ tôi bảo.
Mẹ mua một chục cam sang tạ cụ, rồi cho tôi nghỉ ở nhà nốt tháng hè.
Nhờ cụ dạy, tôi đã học xong chương trình vỡ lòng. Đầu năm học mới tôi có thể ung dung cắp sách đến trường làng để vào thẳng lớp một.
Theo Trần Đức Tiến – Vietimes