Đề tài chủ đạo của Hemingway là lòng dũng cảm – sức chịu đựng của người anh hùng được thử lửa và tự tôi luyện để đối mặt với sự độc ác lạnh lùng của hiện hữu, đồng thời vẫn không khước từ những khoảnh khắc tuyệt vời và sung mãn của hiện hữu.

Ernest Hemingway (1899 – 1961)

* Giải Nobel Văn chương 1954
* Nhà văn Mỹ
* Nơi sinh : Oak Park – Chicago – Ilinois (Mỹ)
* Nơi mất : Kettrum – Ohio (Mỹ)

Ernest Hemingway được đánh giá rất cao và được trao Giải Nobel vì tài năng kể chuyện bậc thầy (nguyên lí “tảng băng trôi”) thể hiện trong các tác phẩm của ông, mà đỉnh cao là Ông già và biển cả. Nhà văn cố gắng và đã truyền đạt một cách thành công cảm xúc và ấn tượng về cuộc đời bằng văn phong tỉnh táo, rõ ràng. Chủ đề chính trong các tác phẩm của ông là tình yêu, cái chết, sự thành công và thất bại của đời người.

Ernest Hemingway là con trai một bác sĩ và một nữ nghệ sĩ opera (người cha tự tử năm 1928). Từ khi còn đi học, ông đã có thơ, truyện in trên các báo trường. Tốt nghiệp phổ thông năm 1917, E.Hemingway muốn vào quân đội để tham gia vào Thế chiến I, nhưng không được nhận vì lí do sức khỏe. Sau đó ông làm phóng viên, rồi tình nguyện sang châu Âu và trở thành lái xe cho Đội Hồng Thập tự của Mỹ trên mặt trận Italia – Áo, bị thương nặng ở đó vào năm 1918. Mối tình với một nữ y tá người Mỹ và kinh nghiệm chiến trường trong những năm tháng này đã trở thành cơ sở cho cốt truyện cuốn tiểu thuyết Giã từ vũ khí mà ông viết sau đó mười năm (1929).

Trở về quê, E.Hemingway thấy cuộc sống ở Chicago quá buồn chán nên tìm cách ra nước ngoài và cùng Elisabeth Hadley, người vợ cưới năm 1921, đi khắp châu Âu với tư cách phóng viên của tuần báo Ngôi sao Toronto. Năm 1921, ông viết về cuộc xung đột Hy Lạp – Thổ Nhĩ Kỳ. Việc làm quen với những nhà văn Mỹ danh tiếng đang sống ở Paris đã đưa ông đến với văn học. Thành quả đầu tiên là tập Ba truyện ngắn và mười bài thơ in ở Paris, 1923.

Năm 1926, E.Hemingway cho ra mắt bạn đọc cuốn tiểu thuyết đầu tay Mặt trời vẫn mọc, phản ánh tâm trạng của lớp người gọi là “thế hệ lạc lõng”. Năm 1929, ông thành công lớn với tiểu thuyết Giã từ vũ khí. Sau những chuyến đi Tây Ban Nha (1931), du lịch châu Phi (1935), E.Hemingway viết nhiều tác phẩm khác. Ông cũng viết kịch bản phim tài liệu về chiến tranh.

Năm 1939, ông tới Cuba. Một năm sau, ông kết hôn với nữ nhà báo Martha Gellhorn và li dị năm 1944. (Năm 1946, ông kết hôn lần thứ tư với Mary Wales). Năm 1940 ra đời tiểu thuyết Chuông nguyện hồn ai, được đánh giá là một trong những tác phẩm đỉnh cao của E.Hemingway. Năm 1942, có mặt trong một đơn vị lính thủy đánh bộ Mỹ với vai trò phóng viên, E.Hemingway đã tham gia trận đổ bộ của quân Đồng minh xuống miền Tây Bắc nước Pháp và giải phóng Paris.

Truyện vừa Ông già và biển cả (in năm 1952 trong Tạp chí Life) mang lại thành công lớn trong giới phê bình và công chúng rộng rãi, kể về cuộc đấu tranh của con người với thiên nhiên như một tất yếu của sinh tồn. Năm 1953, nhà văn được trao Giải Pulitzer cho tác phẩm này. Năm 1954, ông nhận Giải Nobel Văn chương do sự đánh giá đặc biệt cao đối với tác phẩm Ông già và biển cả và ảnh hưởng quan trọng của nhà văn đối với văn học hiện đại.
E.Hemingway có lẽ là một trong những tác giả phương Tây được dịch sớm và biết đến nhiều nhất ở Việt Nam, được đưa vào chương trình sách giáo khoa.

Năm 1961, ở tuổi 62, con người suốt cuộc đời sống nồng nhiệt đó, do những đau đớn của căn bệnh xơ vữa động mạch, đã tự tử bằng súng săn ở Kettrum.

Tác phẩm

– Ba truyện ngắn và mười bài thơ (1923)
– Trong thời đại chúng ta (1924)
– Lũ xuân (1926), tiểu thuyết
– Mặt trời vẫn mọc (1926), tiểu thuyết
– Đàn ông không có đàn bà (1927), tập truyện ngắn
– Giã từ vũ khí (1929), tiểu thuyết
– Cuộc đời ngắn ngủi và hạnh phúc của Francis Macomber (1930), truyện
– Chết lúc hoàng hôn, truyện
– Những đồi xanh Châu Phi (1935),
– Tuyết trên đỉnh Kilimanjaro (1936), truyện ngắn
– Mảnh đất Tây Ban Nha (1938)
– Có và không có (1937), truyện
– Đội quân thứ năm (1938), kịch
– Chuông nguyện hồn ai (1940), tiểu thuyết
– Bên kia sông dưới tán cây (1950), tiểu thuyết
– Ông già và biển cả (1952), truyện vừa
– Đại hội tôn giáo (1964),
– Những hòn đảo giữa hải lưu (1970), tiểu thuyết, in sau khi ông mất
– Sự thật lúc bình minh (1999), tiểu thuyết, in sau khi ông mất

Tuyên dương của Viện Hàn lâm Thụy Điển

Anders Österling, Thư ký thường trực Viện Hàn lâm Thụy Điển

Trong thời đại chúng ta, các nhà văn Mỹ ngày càng in dấu ấn mạnh mẽ trên diện mạo chung của nền văn học. Đặc biệt, thế hệ chúng ta trong vài thập kỷ qua đã được chứng kiến một sự tái định hướng của quan tâm văn học, vốn không chỉ hàm ẩn một sự thay đổi tạm thời trên văn đàn, mà thực sự là một sự dịch chuyển của giới hạn tinh thần, với những hệ quả hết sức to lớn. Tất cả các nhà văn mới nổi lên nhanh chóng ở nước Mỹ, những người mà tên tuổi được chúng ta thừa nhận là những dấu hiệu đầy khích lệ, đều có một điểm chung : họ đã biết tận dụng tính cách Mỹ, tính cách bẩm sinh của họ. Và công chúng châu Âu đón nhận họ một cách nồng nhiệt. Tất cả đều mong muốn rằng, người Mỹ hãy viết như người Mỹ, bằng cách đó góp phần mình vào cuộc tranh đua trên trường quốc tế.

Một trong những nhà tiên phong đó chính là nhà văn hiện đang là trung tâm chú ý của chúng ta. Chẳng có gì quá đáng khi ta nói rằng, Ernest Hemingway, hơn bất cứ đồng nghiệp nào khác ở nước ông, đã khiến chúng ta cảm thấy phải đối mặt với một quốc gia còn non trẻ, nhưng đã biết tìm kiếm và thực tế đã tìm thấy cách biểu đạt chính xác cho mình. Vả chăng, khác hẳn với nhà văn bình thường, chính đời sống của Hemingway cũng có đặc trưng nổi bật là nhịp điệu đầy kịch tính và những khúc ngoặt gắt. Với ông, năng lượng sống này tiến triển theo cách riêng của nó, không hề bị ảnh hưởng bởi tâm trạng bi quan hay vỡ mộng tiêu biểu của thời đại. Ông đã tu dưỡng phong cách của mình ở Trường phóng viên báo chí. Ngay từ lúc làm phóng viên tập sự ở Phòng Biên tập Báo Kansas City, ông đã thấm nhuần tiên đề của cuốn cẩm nang nhà báo : “Hãy viết câu ngắn. Hãy viết đoạn văn ngắn.” Việc tôi luyện kỹ năng thuần túy mang tính kỹ thuật của Hemingway rõ ràng đã giúp ông đạt được một kỷ luật tự giác trong nghệ thuật với sức mạnh khác thường. Ông từng nói : thuật hùng biện chỉ là những đốm sáng xanh leo lét được phát ra từ chiếc máy phát điện. Nhà văn ông coi là bậc thầy trong nền văn học Mỹ trước đó là Mark Twain với tác phẩm Huckleberry Finn, với dòng chảy nhịp nhàng của lối tự sự trực tiếp và "dân dã".

Nhà báo trẻ đến từ Illinois bị cuốn vào cuộc Thế chiến thứ nhất khi ông tình nguyện làm lái xe cứu thương ở Italia. Ông bị thương lần đầu ở chiến tuyến Piave với những vết thương rất nặng do vỏ đạn vỡ bắn vào. Lần bị thương khốc liệt ở độ tuổi 19 là một nhân tố quan trọng trong tiểu sử của Hemingway. Chẳng những sự kiện đó không làm ông nhụt chí, mà ngược lại, ông coi việc một nhà văn được tận mắt chứng kiến chiến tranh – như Tolstoy ở Sevastopol – là một tài sản vô giá : chứng kiến, và mô tả chiến tranh một cách chân thực nhất. Tuy nhiên, phải mất vài năm, ông mới diễn tả được trọn vẹn dưới góc độ nghệ thuật những ấn tượng hỗn độn một cách đau đớn của ông về chiến tuyến Piave năm 1918 : kết quả là tác phẩm Giã từ vũ khí ra đời năm 1929. Nó đã thực sự đem lại danh tiếng cho ông, mặc dù phong cách tự sự độc đáo của ông đã được minh chứng qua hai tác phẩm nổi bật trước đó về thời hậu chiến ở châu Âu, Trong thời đại chúng ta (1924) và Mặt trời cũng mọc (1926). Những năm sau đó, thiên hướng bẩm sinh của ông về những cảnh tượng đau thương và nhẫn tâm đã đưa ông đến châu Phi với tập quán săn thú rừng quy mô lớn và Tây Ban Nha với trò đấu bò. Khi Tây Ban Nha trở thành bãi chiến trường, ông đã tìm được cảm hứng cho tác phẩm lớn thứ hai, Chuông nguyện hồn ai (1940) về một người Mỹ tham gia cuộc chiến vì tự do và "phẩm giá con người", một cuốn sách mà ở đó những cảm xúc cá nhân của nhà văn được thể hiện sâu sắc hơn bất cứ đâu khác.

Khi nhắc đến những yếu tố quan trọng này trong sáng tác của Hemingway, ta không nên quên rằng, kỹ năng tự sự của ông thường thành công nhất khi nó được tập trung vào một khuôn mẫu nhỏ, những câu chuyện ngắn súc tích, giản lược đến nghiệt ngã, với sự kết hợp vô song giữa đơn giản và chính xác, cứ thế nó đóng đinh chủ đề câu chuyện vào ý thức chúng ta, và rồi mỗi cú giáng đều kinh động chúng ta. Kiệt tác lớn nhất của ông theo tiêu chí này là Ông già và biển cả (1952), câu chuyện khó quên về cuộc chiến tay đôi giữa ông lão đánh cá người Cuba với con cá kiếm khổng lồ trên Đại Tây Dương.

Trong khuôn khổ một câu chuyện giải trí mở ra bức tranh xúc động về số phận con người, câu chuyện là lời ngợi ca tinh thần tranh đấu của con người, không qui phục cho dù không đạt được thắng lợi vật chất, lời ngợi ca chiến thắng tinh thần ngay cả khi bại trận. Vở kịch diễn ra ngay trước mắt chúng ta, từng giờ, từng giờ một, các chi tiết gay cấn ngày một dồn dập và ngày càng chất nặng ý nghĩa. “Nhưng con người sinh ra không phải là để thất bại – cuốn sách nói –  con người có thể bị tiêu diệt chứ không thể bị đánh bại”.

Có lẽ đúng là những sáng tác ban đầu của Hemingway thiên về những cảnh nhẫn tâm, yếm thế, độc ác, những đặc điểm có thể bị coi là mâu thuẫn với yêu cầu của Giải Nobel về một tác phẩm mang "thiên hướng lý tưởng". Nhưng mặt khác, ông cũng có nỗi bi tráng của người anh hùng vốn là một nhân tố cơ bản trong cảm nhận của ông về cuộc sống, đó là lòng yêu thích đầy nam tính đối với hiểm nguy và phiêu lưu, với lòng ngưỡng mộ bẩm sinh trước bất cứ ai hiến mình cho những cuộc chiến chính nghĩa trong một thế giới hiện thực bị đè nén bởi bạo lực và chết chóc. Trong mọi trường hợp, đây chính là phương diện tích cực trong sự sùng bái nam tính của ông; nếu không, sự sùng bái đó có huynh hướng chỉ thuần phô trương khoe mẽ và làm thất bại những mục đích của chính nó. Tuy nhiên, cần nhớ rằng, đề tài chủ đạo của Hemingway là lòng dũng cảm – sức chịu đựng của người anh hùng được thử lửa và tự tôi luyện để đối mặt với sự độc ác lạnh lùng của hiện hữu, mà đồng thời vẫn không khước từ những khoảnh khắc tuyệt vời và sung mãn.

Mặt khác, Hemingway không phải là một trong những nhà văn viết để minh họa các đề tài hay các nguyên tắc theo cách này hay cách khác. Một nhà văn hiện thực phải hoàn toàn khách quan và không được cố gắng đóng vai Chúa trời. Ông đã học được điều này ngay khi còn làm biên tập ở tờ Kansas City. Chính vì thế ông có thể cảm nhận chiến tranh như một số phận bi thảm có ảnh hưởng quyết định đến toàn bộ thế hệ của ông, nhưng ông nhìn nó với một tinh thần hiện thực bình thản, không ảo tưởng, khinh thị tất cả những bình luận thiên về cảm tính, một tính khách quan được trui rèn, càng mạnh mẽ hơn bởi vì đạt được nó không dễ.

Vai trò của Hemingway như một trong những nhà kiến tạo phong cách vĩ đại nhất trong kỷ nguyên này là rất rõ ràng trong nghệ thuật tự sự của cả Mỹ và châu Âu trong hơn hai mươi lăm năm qua, nổi bật nhất là những cuộc đối thoại sinh động và những cuộc khẩu chiến mà trong đó, ông đã tạo ra một chuẩn mực rất dễ bắt chước, nhưng đồng thời rất khó đạt được. Với kỹ năng bậc thầy, ông tái tạo mọi sắc thái của ngôn ngữ nói cũng như những lần ngắt quãng mà trong đó, dòng suy nghĩ ngừng bặt và bộ máy thần kinh lồng lên vuột khỏi vòng cương tỏa. Đôi khi, nó giống như những câu chuyện phiếm, nhưng không tầm phào chút nào một khi ta biết được phương pháp của ông. Ông thích để độc giả tự suy ngẫm về những diễn biến tâm lý, và chính sự tự do này giúp ông có thể thoải mái quan sát tự nhiên.

Khi ta nghiên cứu sáng tác của Hemingway, những quang cảnh rõ nét bừng lên trong tâm trí : cuộc chiến đấu của Trung úy Henry trong mưa tầm tã và bùn lầy sau cơn hoảng loạn ở Caporetto, cảnh sụp cầu ở vùng núi Tây Ban Nha khi Jordan hy sinh tính mạng, hay cuộc độc chiến của ông lão đánh cá chống lại những con cá mập trong những ánh đèn đêm lan tỏa từ Havana.

Không dừng lại ở đó, ta có thể tìm thấy một sợi dây kết nối, hãy gọi đó là một sợi dây biểu tượng kéo ngược trở lại hàng trăm năm chiếc khung cửi thời gian, giữa tác phẩm mới nhất của Hemingway, Ông già và biển cả, và một trong những sáng tác cổ điển nhất của văn học Mỹ, cuốn Moby Dick của Herma Melville; một con cá voi trắng bị kẻ thù của mình, vị thuyền trưởng bị chứng độc tưởng rượt đuổi một cách điên cuồng. Cả Melville và Hemingway đều không muốn tạo ra một câu chuyện ngụ ngôn, cái sâu thăm thẳm của đại dương mặn chát cùng những con thủy quái là quá đủ để tạo nên yếu tố thơ ca. Nhưng, bằng các phương thức khác nhau, kẻ lãng mạn, người hiện thực, cả hai đều đạt đến một chủ đề chung : khả năng chịu đựng của con người, và nếu cần, thách thức cả những cái không thể. "Có thể tiêu diệt con người, nhưng không thể đánh bại hắn".

Vì những lý do trên, Giải thưởng Nobel Văn học năm nay được trao cho một trong những nhà văn vĩ đại nhất của thời đại chúng ta, một trong những tác giả, một cách chân thực và dũng cảm, đã tái tạo những tính cách thuần khiết trong giai đoạn đầy gian khó của thời cuộc. Hemingway, nay ở tuổi năm mươi sáu, là nhà văn thứ năm của Mỹ có vinh hạnh này. Vì lý do sức khoẻ, người đạt giải không thể có mặt ở đây, Giải thưởng này sẽ được chuyển cho ngài đại sứ Hoa Kỳ.

•Tân Đôn dịch, Trần Tiễn Cao Đăng hiệu đính

Diễn từ

Do ngài John C.Cabot – Đại sứ Mỹ – đọc tại tiệc chiêu đãi

Vì không có điều kiện phát biểu và không có khả năng hùng biện cũng như khả năng tu từ, tôi chỉ muốn bày tỏ lòng biết ơn đối với những người điều phối sự hào phóng của Alfred Nobel dành cho Giải thưởng này.

Không một nhà văn nào từng biết những nhà văn vĩ đại không được trao Giải Nobel mà không cảm thấy khiêm nhường khi chính mình được nhận Giải thưởng này. Không cần phải nêu tên các nhà văn đó. Mỗi người ở đây đều có thể tự mình liệt kê danh sách đó tùy theo hiểu biết và lương tâm của mình.

Lẽ ra, tôi không thể nhờ ngài Đại sứ nước tôi đọc một bài diễn văn mà trong đó, một nhà văn thổ lộ tất cả những gì nằm trong trái tim mình. Nhiều điều có thể chưa nhận rõ được ngay trong những gì anh ta viết, đôi khi đó là điều may mắn cho anh ta; nhưng cuối cùng, tất cả sẽ trở nên rõ ràng, và nhờ đó, cũng như nhờ mức độ quyền năng của mình, nhà văn sẽ tồn tại lâu dài hoặc bị quên lãng vĩnh viễn.

Viết lách, trong hoàn cảnh tốt nhất, là một cuộc sống cô đơn. Các tổ chức của nhà văn làm dịu bớt nỗi cô đơn của nhà văn, nhưng tôi không cho rằng những tổ chức này có thể cải thiện sáng tác của họ. Nhà văn càng xuất hiện trước mắt công chúng bao nhiêu, anh ta càng rũ bớt sự cô đơn, nhưng thường thì khi đó, tác phẩm của anh ta giảm giá trị. Do anh ta làm việc đơn độc nên, nếu là một tác giả đủ giỏi, hàng ngày, anh ta phải đối mặt, hoặc với cái vĩnh hằng, hoặc với sự hoàn toàn thiếu vắng cái vĩnh hằng.

Đối với nhà văn đích thực, mỗi cuốn sách phải là một khởi đầu mới, trong đó anh ta cố làm một điều gì bất khả lượng đạt. Anh ta phải luôn cố gắng làm một cái gì chưa từng có ai làm, hoặc những người khác đã cố làm nhưng thất bại. Đôi khi, nếu gặp may, anh ta sẽ thành công.

Viết văn sẽ đơn giản biết bao nếu chỉ cần viết khác đi những gì mà người ta đã viết hay rồi. Chính vì chúng ta đã có những bậc thầy văn chương vĩ đại đến vậy trong quá khứ, nên nhà văn phải bứt xa khỏi quá khứ, để đi đến nơi mà không ai có thể giúp anh ta.

Tôi đã nói quá lâu đối với một nhà văn. Nhà văn chỉ nên viết ra những gì anh ta muốn nói, chứ không phải thốt ra bằng lời. Một lần nữa, xin cám ơn quý vị.

Trần Tiễn Cao Đăng dịch

Theo Trung tâm ngôn ngữ Văn hóa Đông – Tây

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *