Nhưng trong sự bề bộn – không phải ai cũng giống ai – ấy, dường như họ lại xóa bỏ những khoảng cách thời gian để gặp nhau ở một nốt lặng thi ca trong trẻo và đầy xúc động: lòng kính trọng, tình yêu hướng về người mẹ.

A.Pushkin, như nhiều cuốn sách viết về ông cho biết, sinh ra trong một gia đình quý tộc mà mọi người đều nói tiếng Pháp và bận rộn với những sinh hoạt thượng lưu hơn là việc chăm sóc con cái, vậy nên ngay từ ấu thơ ông đã gần gũi với bà nhũ mẫu Arina Rodionovna – người đầy tớ nông nô, hơn là với mẹ đẻ của mình. Ông học tiếng mẹ đẻ không phải từ mẹ đẻ, mà là từ nhũ mẫu.

Sau này, khi bị Sa hoàng lưu đày ở làng Mikhailovscoye, A.Pushkin tiếp tục sống với nhũ mẫu một thời gian và chịu nhiều ảnh hưởng tự nhiên tích cực của bà. Có thể nói, bà lão nông nô hiền lành ấy là một nguồn sáng trong ngôi nhà qúy tộc. Tuy thất học nhưng bà thuộc lòng không biết bao nhiêu truyện cổ tích, thơ ca dân gian, thành ngữ, tục ngữ; bà am hiểu những tập tục cổ truyền, những nghi lễ hội hè chốn thôn quê.

Và tất cả cái kho báu ấy đã được "rót" vào Pushkin, được nhà thơ thiên tài hấp thu, biến nó thành một phần trong năng lượng sáng tạo cường tráng của mình. Chính vì thế dễ hiểu tại sao Pushkin viết nhiều và viết rất đằm thắm về nhũ mẫu:

"Mẹ thân thiết trong những ngày cơ cực
Nguồn mến thương nâng bước đời con!
Rừng thông thăm thẳm cô đơn
Ngóng con ngày tháng mỏi mòn mẹ trông
Trong phòng khách bên song cửa sổ
Như người canh, thương nhớ mênh mang
Tay già lần mũi kim đan,
Như đang đếm bước thời gian chậm buồn
Mẹ thẫn thờ nhìn đường thăm thẳm
Lối cổng vào bỏ vắng từ lâu
Buồn thương, linh cảm, lo âu
Lại càng chất nặng thắt đau ngực già…"
                                 (Gửi mẹ nuôi – Thúy Toàn dịch) 

Nhà thơ gọi nhũ mẫu của mình là "Mẹ thân thiết trong những ngày cơ cực/ Nguồn mến thương nâng bước đời con" – nội cách gọi ấy cũng đã cho thấy bà nhũ mẫu chiếm một phần quan trọng thế nào trong cuộc đời của ông: đó là nguồn sức mạnh tinh thần giúp ông vượt qua sự áp chế của cường quyền, vượt qua nỗi run sợ trước máy chém và nhà tù để thực hiện vai trò của một nhà thơ yêu nước và chiến đấu, một "người gieo giống tự do trên đồng vắng" (tên một bài thơ của Pushkin).

 

Hình ảnh bà mẹ trong bài thơ hoàn toàn là hình ảnh được chiếu trên nền sự tưởng tượng của tác giả: mẹ ngóng con mỏi mòn, mẹ lần mũi kim đan như đếm bước thời gian, mẹ thẫn thờ nhìn đường xa thẳm… Tưởng tượng, nhưng đồng thời đó cũng là niềm tin, và chỉ có thể có niềm tin chắc chắn như vậy khi đứa con ở xa luôn nghĩ về mẹ, hướng về mẹ bằng một tình yêu tuyệt đối!

Còn khi ở gần thì sao? Một buổi chiều mùa đông, khi ngoài trời bão tuyết dữ dội, thì ở trong nhà:

"…Nỗi buồn tăm tối bao la
Phủ kín căn nhà dột nát
U già ơi, sao héo hắt
Sao U chẳng nói nên lời
Hay tiếng thở than ngoài trời
Day dứt làm U mệt lả?
Hay guồng sợi quay rời rã
Rầm rì ru U ngủ quên?
U già của tuổi thơ con
Bạn của đời con cực khổ
Uống đi U, vài ngụm nhỏ
Trái tim có bớt ưu phiền?
U hát con nghe bài hát
Về con chim biển bình yên
U hát con nghe bài hát
Cô em quẩy nước dịu hiền…"
                     
  (Chiều đông – Bằng Việt dịch)

Là những câu hỏi của con với U già, những câu hỏi thật ân cần và dịu dàng, tạo một sự tương phản hoàn toàn với cái dữ dội của thiên nhiên bên ngoài. Nhà thơ một lần nữa khẳng định bà nhũ mẫu (U già) là "bạn của đời con cực khổ".

Và, mặc cho bên ngoài gió bão rít lên ghê rợn; trong nhà tiếng hát của U già vẫn cất lên, những bài hát có "con chim biển bình yên" và "cô em quẩy nước dịu hiền". Đó chính là những bài dân ca Nga, những suối nước mát ngọt mà nhũ mẫu đã mang từ nguồn của nó tưới tắm cho tâm hồn nhà thơ vĩ đại.

Bài thơ này, có lẽ Pushkin làm trong, hoặc sau thời gian ông sống ở làng Mikhailovscoye cùng với nhũ mẫu. Và chúng ta có thể tin rằng, bà lão nông dân thất học ấy chính là người đối thoại đầu tiên của Pushkin, là thính giả đầu tiên của thi phẩm tuyệt vời ấy.

Sergei Esenin ra đời sau khi "mặt trời của thi ca Nga" (Pushkin) đã lặn hơn nửa thế kỷ. Ông là thi sỹ của một nước Nga khác, một thời đại khác, một khí hậu văn hóa đã rất khác nếu so với Pushkin. Ông không còn cái tự tin đi về phía nhân dân, gánh sứ mệnh là người đại diện cho nhân dân để chống lại áp bức như Pushkin (Tôi cứ gào lên là tôi thân thiết với nhân dân/ Nhưng ở đây thơ tôi chẳng ai cần/ Cả tôi nữa, cũng chẳng còn cần thiết).

Ông không có một bà nhũ mẫu để làm một thi ảnh người mẹ như Pushkin. Nhưng ông có một thân mẫu tuyệt vời, một bà mẹ nông dân, một bà mẹ Nga điển hình của sự yêu thương và tấm lòng bao dung. Tuy vậy, khi viết về mẹ, dù rất đằm thắm dịu dàng, song những tình cảm u sầu cay đắng cũng đã kịp ngấm trong thơ ông.

Một trong những bài thơ hay nhất về mẹ của Esenin được viết năm 1924, một năm trước khi nhà thơ tự vẫn, có nhan đề "Thư gửi mẹ". Ngay ở hai khổ đầu bài thơ đã là một sự giả định, phân vân, không chắc chắn:

Mẹ có được khỏe không, mẹ hiền yêu quý
Con vẫn khỏe, kính chào mẹ, mẹ ơi!
Mong sao cho ánh sáng ban chiều êm dịu ấy
Rọi chiếu nóc nhà ta vĩnh viễn muôn đời

Nghe họ nói: mẹ giấu niềm lo lắng
Luôn âu sầu buồn nghĩ về con
Và khoác tấm áo bông xơ xác
Mẹ thường ra đường cái ngóng chờ trông
               (Thư gửi mẹ – Hồng Thanh Quang dịch)

Thực tế, như chúng ta biết, quãng thời gian này Esenin sống phóng túng hình hài ở Moskva, ông ngập mình trong cái không gian đô thị – mà vốn dĩ ông rất dị ứng – với những tửu quán, những tiệc tùng, những mối tình cuồng loạn, và sự bế tắc tư tưởng. Ông ở rất xa mẹ, rất xa quê hương Riazan thân thiết, và sự xa cách ấy cũng đã rất lâu. Vì thế, với sự nhạy cảm thi sỹ, ông tưởng tượng về sự tưởng tượng của người mẹ suốt cả cuộc đời hết lòng lo lắng cho con:

Và mẹ trong bóng hoàng hôn nhập nhoạng
Thường hay mơ thấy cảnh, ngỡ như ai
Nơi quán rượu, giữa cơn say lú lẫn
Đâm thẳng vào tim con nhọn hoắt lưỡi dao dài

Có thừa sự tỉnh táo để tự nhận thức rằng sự lựa chọn con đường đi trong đời của mình, cách sống của mình, và giờ đây là sự xa cách biền biệt, tất cả những điều ấy đem lại cho mẹ không gì khác ngoài nỗi lo âu phiền muộn triền miên, Esenin đã gửi vào trong "Thư gửi mẹ" giọng điệu hối lỗi của một đứa con đãng tử trước mẹ hiền. Yêu thương và hối hận, đó là hai trạng thái cảm xúc chạy suốt "Thư gửi mẹ" của Esenin.

Về mặt nào đó, chính ở bài thơ viết về mẹ, viết cho mẹ này, Esenin đã tự bộc lộ những mâu thuẫn giằng xé quyết liệt trong con người tinh thần của ông, bộc lộ tấn bi kịch của sự tuyệt vọng trước những giá trị tưởng như vĩnh hằng trong đời sống.

Ông xin mẹ – và hẳn đây là điều khá bất ngờ đối với một người phụ nữ nông thôn Nga ngoan đạo: "Và chớ dậy con nguyện cầu, chớ dậy!/ Đường về xưa đã mất hẳn rồi…". Tất cả đã trở nên mất giá, tất cả chỉ là hư ảo trong cái nhìn cuộc đời của Esenin. Duy có một điều là giá trị thường hằng với nhà thơ, đó là mẹ: "Con chỉ có mẹ là niềm vui, niềm an ủi/ Chỉ có mẹ là ánh sáng dịu hiền thôi…" (Ta hãy nhớ lại câu thơ của Pushkin: Mẹ thân thiết trong những ngày cơ cực/ Nguồn mến thương nâng bước đời con). Bài thơ kết lại bằng bốn câu:

Nên mẹ hãy quên đi niềm lo lắng
Đừng âu sầu buồn nghĩ về con,
Đừng khoác tấm áo bông xác xơ cũ kỹ
Ra ngoài đường cái ngóng chờ trông!

Esenin là người biết rằng lời cầu xin ấy sẽ không bao giờ trở thành hiện thực. Bởi, bà mẹ không thể ngừng yêu thương và lo lắng cho đứa con mình rứt ruột đẻ ra; bà không thể không bồn chồn khi nó rời vòng tay mình, lao vào sóng gió cuộc đời với cái thiên chức thi sỹ cao cả nhưng đầy bất trắc.

Bài thơ mở ra với hình ảnh mẹ "… khoác tấm áo bông xác xơ cũ kỹ, Ra ngoài đường cái ngóng chờ trông!" và kết thúc cũng bằng hình ảnh ấy. Có thể nói, đó không phải là một thi ảnh đẹp, nhưng là một thi ảnh gây xúc động, và càng xúc động hơn khi nó "thấm nhiễm" tính chất và cường độ cảm xúc mà tác giả bộc lộ trong bài thơ. Xin mạnh dạn được khẳng định rằng, thật ra, những thi ảnh mẹ có thể găm lại được trong trí nhớ người đọc như vậy vốn không nhiều!

Tự cổ chí kim, từ Đông sang Tây, nhân loại đã nói nhiều, thậm chí quá nhiều, về vai trò tối quan trọng của người mẹ trong đời sống, trong lao động sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sỹ (Gorky: Đời thiếu Mẹ hiền, không phụ nữ/ Anh hùng, thi sỹ hỏi còn đâu?). Đó là chân lí hiển nhiên, không có gì phải bàn cãi. Nhưng vấn đề là, để người mẹ trở thành hình tượng nghệ thuật có sức lay động mạnh mẽ, truyền được sự xúc động qua nhiều thế hệ người thưởng thức, người mẹ ấy cần phải được "lọc" qua tình yêu chân thành và tài năng lớn của người sáng tạo.

Bà nhũ mẫu của A.Pushkin, bà mẹ của S.Esenin và nhiều bà mẹ khác đã có được cái may mắn – phải nói là "may mắn" – như vậy. Và đó cũng là cái may mắn của người đọc, may mắn của thơ ca khi có được những bài thơ thật hay từ Người Mẹ, về Người Mẹ!

Theo Hoài Nam – CAND Online

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *