1. Có nên hy sinh vì nghiệp văn?
|
Nhà văn Nguyên Hồng |
Để thể hiện sự phụng sự hết mình cho văn chương, nhiều người viết đã nói quá lên rằng mình hiến thân cho văn chương, văn chương là mục đích sống duy nhất của đời mình, đó là thứ cuối cùng còn lại với tôi. Nghe ghê quá! Nhà văn Ma Văn Kháng trong một truyện ngắn của mình ở tập "Trăng soi sân nhỏ" có kể về một người viết văn chỉ chú ý việc viết, để cho đàn con đông nheo nhóc đói khát.
Trong chiếc chum ở góc buồng thì không có một hột thóc, chỉ có những tập bản thảo úa vàng vì không đâu chịu in. Theo tôi, đó là một người vô trách nhiệm. Anh đã vô trách nhiệm với đàn con của mình thì mong gì những trang văn có trách nhiệm với cuộc đời!
Trong cuộc sống thực, có người viết mải mê quên cả lấy vợ, quên xây dựng cuộc sống riêng của mình, hoặc quá say mê với văn chương để tổ ấm của mình tan vỡ. Ca ngợi những người sống hết mình với văn chương, nhưng không nên ca ngợi những người vì văn chương mà quên những việc khác.
Cuộc đời cao hơn văn chương. Hãy sống vì cuộc đời gồm cuộc sống riêng và lý tưởng chung, còn văn chương có đến đâu thì thể hiện đến đấy. Chứ sự mất thăng bằng trong cuộc sống chắc gì đã đem lại những điều hay cho nghiệp văn?
Nguyễn Du cứ làm quan và vẫn có "Truyện Kiều". Nếu tiên sinh lại không làm quan làm sao nuôi nổi vợ con, thì chắc gì "Truyện Kiều" đã có! Nguyễn Khuyến cũng vậy, nếu ông không làm quan va đập cuộc đời mà cứ ở quê từ hồi còn trẻ thì chắc gì đã nghe thấy tiếng ngỗng trên không trong đêm khuya, tiếng cá đớp chân bèo buổi chiều thu ao nhà?
Nguyễn Duy nếu không đa tình sống với cuộc đời mà chỉ biết có thơ thì làm sao viết được "Đà Lạt một lần trăng" và "Sông Thao" tài hoa?… Hãy sống hết mình với cuộc đời sau đó hãy nghĩ đến văn chương, chứ đừng làm ngược lại.
Nếu ai đó có nói: viết văn làm thơ là để chơi thôi cũng không sao! Để chơi vẫn có thể hết mình, vì "Nghề chơi cũng lắm công phu" mà. Hết mình với nghiệp văn là tâm huyết với nó, trút cả tâm tư suy nghĩ vào từng trang viết, để trang viết không bợt bạc. Việc đó là tự nhiên, chứ không phải là chết cho nó mới là hết mình. Chết là hết, còn đâu mà hết mình nữa!
Còn tôi, coi việc viết văn làm thơ là một việc bình thường sau khi đã hoàn thành những công việc mà cuộc đời giao cho. Không có tài thì hãy viết những trang văn có ích. Ai muốn lên đỉnh thi sơn, chiếm lĩnh lâu đài văn chương thì tôi nhường lối. Tôi chỉ sớm tối với công việc, với gia đình, cảm hứng đến thì viết, không thì thôi.
Từ hai chục năm trước, tôi đã viết trong bài thơ "Những niềm vui, những nỗi buồn" đúng với tâm trạng này: "Biết đâu đời ngắn đêm dài/ Lo chi tạc những tượng đài, người ơi!". Những người chỉ chăm chăm lo dựng tượng đài cho mình thì tượng đài ấy rất dễ sụp đổ.
Viết để trả nợ cuộc đời, cũng là một cách nói. Maiacốpxki có viết: "Tôi mắc nợ những khoảng trời Batđat/ Nợ giăng đèn khu phố Brôtuây/ Những thiếu nữ đẹp như hoa anh đào Nhật Bản/ Tôi mắc nợ những gì chưa nói được bằng thơ"… Cảm giác mắc nợ và phải trả có một ý nghĩa tích cực. Nhưng đây là sự hiến dâng cho cuộc đời, cho con người bằng nghệ thuật, chứ không phải là hy sinh cho văn chương bằng cả cuộc đời mình.
2. Cuộc sống của nhà văn
Nhà thơ nhà văn cũng được sinh ra như mọi người. Lớn lên được đi học hoặc phải kiếm sống như mọi người. Ngày xưa, chưa có các cơ quan báo chí và văn học thì những người làm thơ viết văn thường tự mình viết ra những cảm xúc và suy nghĩ bằng hình tượng để tự mình chiêm ngưỡng. Khi ấy các nhà thơ nhà văn rất ít được gặp nhau, hãn hữu mới có những tình bạn văn chương. Cuộc sống của nhà thơ nhà văn chủ yếu sống với mọi người xung quanh mình không làm thơ viết văn gì cả. Vậy làm sao họ có thể nuôi dưỡng hồn thơ hồn văn của mình?
Nhà thơ nhà văn vừa phải sống cuộc đời bình thường của một con người, vừa phải nuôi dưỡng hồn thơ hồn văn của mình khác với mọi người. Nhưng làm sao để anh không khác người không lập dị là một thách thức lớn.
Nhà thơ Pêtôphi (Hunggari), nhà thơ Cao Bá Quát còn là lãnh tụ của nghĩa quân nữa. Tất nhiên họ phải "hòa nước sông chén rượu ngọt ngào" như mọi người thì mới động viên được mọi người theo mình chiến đấu.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng vậy, Người bình dị đến mức hơn cả người dân thường. Tôi đặc biệt xúc động khi xem những hình ảnh Bác trong kháng chiến chống thực dân Pháp: Người xách nước tưới rau, tắm suối, tự giặt quần áo, vác sào phơi áo đi về lán cho mau khô, rồi Người đánh bóng chuyền, cũng lúng túng vụng về…
Thế mà lại là vị tổng chỉ huy cuộc kháng chiến với một đế quốc to và là thi sĩ hơn mọi thi sĩ: "Tiếng suối trong như tiếng hát xa/ Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa/ Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ/ Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà". Vì vậy, thấy những người viết văn làm thơ lập dị là tôi hơi ác cảm và tự đặt câu hỏi: đấy là phong cách tự nhiên hay anh ta cố tình tạo ra?
Lớp nhà thơ chống Mỹ thì mỗi người ở một binh chủng. Phạm Tiến Duật sống ở đoàn vận tải đường 559 Trường Sơn. Hữu Thỉnh ở đơn vị tăng thiết giáp. Nguyễn Duy, Anh Ngọc là lính thông tin. Hoàng Nhuận Cầm, Nguyễn Đức Mậu là lính bộ binh… Các anh cũng sống như mọi chiến sĩ.
Phải hoàn thành nhiệm vụ được giao để chiến thắng quân thù. Hồn thơ thì tự mình nuôi, tự mình giữ. Thơ hay mà không hoàn thành nhiệm vụ thì vẫn bị kiểm điểm, khiển trách. Điều đó là tất nhiên. Kỷ luật quân đội là kỷ luật thép, phải quân lệnh như sơn. Có thế mới chiến thắng được quân thù.
Sau này, một số người khi viết về Lưu Quang Vũ và Vũ Đình Văn thường thổi phồng mâu thuẫn giữa kỷ luật quân đội và tính tự do nghệ sĩ của các anh, không hiểu với mục đích gì? Trường hợp Lưu Quang Vũ thì tôi không biết. Riêng ở Vũ Đình Văn, tôi ở cùng trung đội với anh thì tôi biết rõ.
Tết Nguyên đán Nhâm Tý năm 1972, cô L. bạn gái của anh, có đến thăm anh. Khi ấy đơn vị của tôi và Văn đang đóng ở Hà Thái, Hà Trung, Thanh Hóa. Cả chỉ huy và đồng đội chúng tôi đều đón tiếp tử tế, trân trọng tình cảm yêu quý của cô đối với người chiến sĩ. Nào có ai kiểm điểm, khiển trách gì Văn đâu, mà những người viết về anh sau này cứ vống lên?
Bây giờ thời hiện đại, các nhà thơ nhà văn được thường xuyên gặp gỡ giao lưu với nhau. Tất nhiên đó là một điều hay, để chia sẻ, động viên nhau sáng tạo. Nhưng cũng đừng để sự giao lưu ấy làm loãng đi sự tự nuôi dưỡng hồn thơ hồn văn. Nói gì thì nói, nhà thơ nhà văn là phải tự vượt cạn, độc lập sáng tạo. Cuộc sống ồn ào của giao lưu hiện đại có thể lại là kẻ thù của sáng tạo văn chương!
3. Đến với văn đàn
Mỗi nhà văn nhà thơ bước vào nghiệp văn một cách khác nhau. Chỉ tính về mặt hình thức là đến với văn đàn thì cũng mỗi người xuất hiện một khác. Có người được đưa đến một cách dễ dàng, có người phải tự tìm đến một cách vất vả. Sớm hay muộn cũng khác nhau. Tuy nhiên, sự xuất hiện sớm hay muộn, khó khăn hay dễ dàng không phải là tiêu chí để đánh giá tầm vóc sự nghiệp của họ.
Nhà văn Tô Hoài với tác phẩm "Dế mèn phiêu lưu ký", nhà văn Nguyên Hồng với tiểu thuyết "Bỉ vỏ" trình làng ở độ tuổi hai mươi. Các nhà thơ thì còn sớm hơn, Chế Lan Viên với tập "Điêu tàn" khi mới 17 tuổi.
Trần Đăng Khoa nổi tiếng trước tuổi lên mười. Nhưng Đặng Thai Mai bước vào làng văn với "Văn học khái luận" khi đã 42 tuổi. Nguyễn Huy Thiệp xuất hiện bằng một số truyện ngắn trên báo Văn nghệ thời kỳ đầu Đổi mới khi anh cũng đã gần bốn mươi. Đó là những người đến với văn đàn và được đón nhận ngay.
Còn có một số nhà thơ nhà văn đến được với văn đàn vô cùng vất vả. Nhà thơ Nguyễn Duy kể khi anh làm bộ đội thông tin đã sáng tác đến mấy chục bài thơ gửi các báo, nhưng không được đăng bài nào. Tuy nhiên, anh vẫn tin tưởng vào hồn thơ của mình.
Anh đã viết những câu thơ tự động viên mình, tự tin ở thơ mình: "Cò bay bằng cánh trắng tinh/ Lúa thơm bằng phấn hương lành ai ơi/ Mây trôi bằng gió của trời/ Còn ta, ta hát những lời của ta". Thế rồi, cuộc thi thơ của Báo Văn nghệ năm 1972 – 1973 đã phát hiện ra anh. Nhà phê bình Hoài Thanh đã giới thiệu thơ anh một cách nồng nhiệt. Anh đã đoạt giải nhất cuộc thi này cùng với ba người khác. Và cứ thế trên thi đàn đã có một Nguyễn Duy.
Nhà thơ Thanh Thảo bước vào thi đàn cũng có số phận tương tự. Lúc đầu, anh cũng gửi thơ cho các báo mà không được đăng là vào những năm đầu thập kỷ bảy mươi của thế kỷ trước. Rồi một lần đọc các bản thảo cũ đã bị loại của tạp chí "Tác phẩm mới" (nay là tạp chí Nhà văn), nhà thơ Chế Lan Viên đã phát hiện ra thơ Thanh Thảo hay và lạ. Ông liền chọn lọc giới thiệu hơn một chục bài trên tạp chí này, là điều chưa từng có trước đó, trong đó có bài "Dấu chân qua trảng cỏ" nổi tiếng mà sau được lấy tên đặt cho một tập thơ của Thanh Thảo.
Từ đấy, thi đàn mới có ngôi sao mới Thanh Thảo và tập thơ "Dấu chân qua trảng cỏ" được giải thưởng Hội Nhà văn năm 1979. Còn nhà văn Lê Lựu thì vất vả hơn nhiều. Những năm sáu mươi của thế kỷ trước anh là bộ đội của quân khu Tả Ngạn. Anh viết nhiều tin gửi cho báo của quân khu mà không được đăng.
Rồi một lần anh được đăng tin chiến dịch diệt ruồi của đơn vị có mấy chục chữ mà anh cảm động đến phát khóc. Từ đó mới dám viết báo tiếp, rồi dần dần chuyển sang viết văn và đạt đến đỉnh cao với tiểu thuyết "Thời xa vắng" (1986) khi ở tuổi 44…
Mỗi nhà văn đến với văn đàn bằng một con đường riêng cũng giống như mỗi nhà văn có một khuôn mặt riêng vậy. Đời văn được đến đâu thì còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố, còn do trời cho. Nhưng động lực của mỗi nhà văn cũng vô cùng quan trọng.
Đã đành, năng khiếu văn chương là do trời phú. Nhưng nếu không có ý chí và nghị lực để nuôi dưỡng nó thì Nguyễn Duy, Thanh Thảo, Lê Lựu và bao người khác sau thất bại ban đầu có thể sẽ bỏ cuộc.
Một số người đã có những thành công ban đầu mà còn bỏ cuộc nữa là, như Trần Quán Anh với kịch bản "Tiền tuyến gọi", Lý Phương Liên với chùm thơ trong đó có bài "Ca bình minh", Hoàng Hiếu Nhân làm thơ thiếu nhi lúc đầu cũng chỉ đứng sau Trần Đăng Khoa…
Theo CAND Online