Nhà văn Tô Hoài

Sinh năm 1920, năm nay, nhà văn đã 90 tuổi. Ông đi lại khó khăn vì bệnh gút. Nhưng tinh thần thì vẫn minh mẫn như những lần gặp trước đây, vẫn hóm hỉnh và đặc biệt là nét cười luôn phảng phất trên gương mặt. Hỏi chuyện viết lách lâu nay, ông như trẻ lại. Ông bảo đã thành lệ, nhiều năm nay mình vẫn đi chợ với làng báo cuối năm, viết cho hàng loạt tờ báo Tết. Năm nay cũng thế.

Tôi nhớ trong loạt bút kí nhà văn viết về Tây Bắc có Giải phóng Mường Giơn. Ông bảo đang định đưa chuyện đó sang kịch bản phim, sẽ bàn với anh Nông Quốc Bình – Chủ tịch Hội VHNT các dân tộc thiểu số Việt Nam – để làm việc với Sơn La, nếu họ cần thì chắc sẽ thành. Tôi chưa kịp tỏ lời thán phục những dự định ở tuổi 90 của ông thì nhà văn bỗng như vụt trở về hồi ức xa xưa với nụ cười tuổi trẻ : Gái Thái đẹp lắm anh ạ! Có vẻ như đó cũng là một phần quan trọng để ông nghĩ ngẫm về đề tài này.

Ông tâm sự : Tôi viết theo thực tế thôi, xưa nay thế cả. Tiểu thuyết Mười năm có nhân vật Hai Tâm lẳng lơ nhưng nhiệt tình cách mạng, thế mà lúc ấy cũng suýt bị tỉnh Hà Đông họ kiện. Họ cho là nói xấu. Làm gì có chuyện đó, đó là chuyện con người. Ông nhẩn nha theo hồi ức : Cát bụi chân ai, rồi Chiều chiều… và một số cuốn khác. Những câu chuyện ấy, mình cũng viết theo thực tế cả thôi. Thế mà có lúc cũng bị xì xào bàn tán. Nhưng rồi cũng có cấm mãi cả đâu, rồi dần dần cũng sẽ được in lại cả thôi. Nào có gì đâu, là cuộc sống nó thế đấy chứ. Cuốn Giấc mơ của ông thợ dìu tôi viết về cái anh thày dạy múa ở sàn nhảy, chứ không phải thợ rìu là anh sơn tràng đâu. Chuyện ấy cũng là thực tế đấy. Ngay cả chuyện Dế mèn, tôi cũng viết theo thực tế quan sát thấy. Ông nhấn mạnh đến hai chữ “thực tế” như đường dẫn cho các bước đi của văn chương mình.

2. Với lớp đàn em đi sau, ông luôn là người anh ân cần. Còn nhớ khi Triệu Bôn chưa thành nhà văn, trước khi khoác ba-lô vào chiến trường đã đến gửi ông truyện ngắn Đường chân trời nhờ ông giữ hộ. Dù chẳng quen biết gì, vậy mà ông vẫn trân trọng đọc và sửa sang, đưa in khi Triệu Bôn còn ở chiến trường. Nhắc lại chuyện đó, ông vẫn xuýt xoa : đó là truyện ngắn hay, đáng nhớ.

Tôi – người viết bài này – là người vẽ tranh, lõm bõm viết những tản văn cho tờ Lao Động vào những năm cuối thế kỉ XX. Đến 2001, tập hợp được trăm bài, đánh bạo gửi đến nhờ ông đọc và thành thực nói với ông : “Cháu thích thì viết tay ngang thôi, không dám có tham vọng văn chương”. Nghe thế, ông nheo mắt nhìn tôi, mỉm cười : Thế anh Đức bảo thế nào là văn chương? Tôi lúng túng : Thưa bác, bác hỏi về vẽ thì em còn thưa lại được đôi lời, chứ văn chương là chuyện của bác chứ ạ! Nhấp chén trà, mắt nhìn về xa xăm, ông nhẹ nhàng bảo tôi : Đơn giản thế này thôi, văn là cái để người ta đọc, đọc rồi thì có cái để người ta ngẫm, ngẫm rồi thì có cái để người ta nhớ, đó là văn.

Ông giữ bản thảo chừng một tháng rồi mới gọi điện cho tôi. Đến gặp ông, tôi phấp phỏng, nhưng ông vẫn nhẩn nha pha trà. Lát sau mời trà, ông bảo tôi : Anh viết đã có văn đấy, không phải ngôn ngữ báo chí đâu. Rồi ông lấy ra tờ viết tay đưa cho tôi. Thật mừng được ông khen thằng bé đang tập bò vào văn như tôi. Ông viết như lời trò chuyện : "Tập tản văn của anh, tôi đã thấy rải rác trên báo Lao Động, nay được đọc một loạt bài, tưởng như nho nhỏ nhưng có ý nghĩa sâu xa và liên quan mật thiết đến cuộc đời mà anh đã trải, đã biết từ ấu thơ đến ngày nay với những nhận xét quanh mình và tâm tư của mình qua mọi hoàn cảnh. Ngòi bút trách nhiệm của anh đã tạo nên bức họa sinh động về xã hội, đất nước và con người”. Ký tên Tô Hoài, rồi ông cầm và đọc lại cho tôi nghe, rồi bảo : Nhà văn bây giờ nhiều anh cứ viết đâu đâu ấy, khi cuộc sống xung quanh mình bao nhiêu điều đáng nói thì lại không để ý. Thấy tôi yên lặng, ông cầm tờ viết lên giải thích thêm : Đây nhé, tôi nhấn mạnh hai chữ trách nhiệm. Viết là phải có trách nhiệm.

3. Sáng đầu Xuân Kỷ Sửu, phường Nghĩa Tân làm tiệc chúc mừng ông vào đại thọ 90 và 60 năm tuổi Đảng. Ông bảo vừa đi dự liên hoan về, cũng thấy vui. Chỉ vì cái bệnh gút được cái rét lạnh phù trợ nó hành hạ mình nên mới đi lại khó khăn…

Nhớ lại cách đây mấy năm, vào ngày giỗ đầu nhà thơ Nông Quốc Chấn, tôi đến xin ông vài dòng viết tay để in vào cuốn sách tưởng niệm. Ông ôn lại rất nhiều trong kí ức thời trai trẻ với nhà thơ. Ông nheo mắt bảo : Thơ Chấn có hai câu hay nhất, đó là : Khi nghe gió thổi qua Phja Bjoó
c/ Em biết mùa thu đã hết rồi…
Phải ở đấy mới hiểu hết cái hay và độ ngân của hai câu thơ ấy. Nhưng vui và hóm nhất là nghe ông kể những câu chuyện tình trong kháng chiến. Có lúc, hai ông còn ganh tị nhau vì được cô này cô kia thích. Ông bảo : Chấn đẹp trai nên lợi thế hơn… Nghe ông kể, tôi thấy ông thật trẻ trung như một chàng Vệ quốc đoàn năm xưa!

Chín mươi tuổi, ông vẫn giữ lịch làm việc như nhiều năm nay : sáng tập nhẹ rồi đọc sách báo đến mười giờ. Ông chỉ tiếp khách sau giờ đó. Lúc khỏe, buổi chiều còn đi bộ. Ông vẫn viết đều. Ông bảo, viết là để vệ sinh cái đầu, để rèn luyện trí nhớ. Với ông, đọc và viết là công việc hàng ngày không thể bỏ. Ông nhẹ nhàng khuyên : Tôi đọc thấy anh vẫn viết đều trên báo, anh viết khoẻ đấy, nên làm việc đều đặn như thế.

Hôm nay, ông không thể đứng dậy đi lại được như mọi khi, nhưng vẫn có nụ cười tiễn tôi ra cửa. Lần nào cũng vậy, nụ cười mỉm chưa khi nào vắng trên môi mỗi lần tôi gặp ông cho đến lúc chia tay.

Đỗ Đức – Theo TTVH

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *