![]() |
Bà Cao Thị Xuân Cam, vợ nhà phê bình, nghiên cứu và giảng dạy văn học Văn Tâm |
Tình yêu thuở học trò
Khi mẹ di cư vào Nam năm 1954 đem theo mấy chị em, chỉ còn lại tôi với bố ngoài Bắc. Một hôm bố gọi tôi vào bảo: “Có anh bạn anh Hạo muốn tìm hiểu con, con định thế nào?” – “Con có biết mặt mũi anh ấy ra sao mà trả lời bố?”, tôi nói. Vài hôm sau, khi đi học về, tôi thấy một anh đi từ nhà trọ bên cạnh vào nhà chơi. Tôi nhìn anh và chào. Anh cũng chỉ chào một tiếng. Rồi chính anh đến hỏi: “Cho anh tìm hiểu em nhé!” Tôi không trả lời. Từ đó tôi đi đâu, anh theo đấy. Tôi ra bờ đê giặt áo, anh cũng ra ngồi nhìn, tan trường đã thấy anh đứng trước cổng đợi… Rồi một hôm anh rủ tôi đi chơi, lúc này tôi mới nói thật với bạn bè là có một anh đang theo đuổi, thế là đứa cho mượn áo, đứa cho mượn quần, rồi mượn giày, đứa kẹp tóc, đánh phấn… Sau buổi đi chơi đó, bọn bạn xúm lại hỏi tôi anh ấy tỏ tình thế nào. Tôi bảo: “Anh ấy chẳng nói gì cả”. Thế là bọn bạn la lên: “Sao mày lại quen cái anh dở hơi thế!” Có lẽ anh là người đàn ông yêu kỳ lạ nhất mà tôi từng biết. Những ngày yêu nhau, lời nói của anh, tôi đếm được.
Ông tên thật là Nguyễn Văn Tâm, sinh ngày 5.9.1933, mất ngày 24.6.2004. Bút danh: Văn Tâm, Tầm Dương. Năm 20 tuổi ông đã xuất bản hai vở kịch ngắn: Ánh sáng và bóng tối, Giải tán. Tốt nghiệp ĐH Tổng hợp khoá đầu tiên sau kháng chiến, cùng khoá với Ninh Viết Giao, Cao Xuân Hạo, Bạch Diệp, Hà Thúc Chỉ… Vừa là giáo viên dạy văn vừa là nhà nghiên cứu phê bình văn học, ông dành trọn cả đời cho những công trình nghiên cứu tác giả – tác phẩm: Vũ Trọng Phụng, Tản Đà, Đoàn Phú Tứ, các tác phẩm văn học lãng mạn, Hữu Loan, Phùng Quán, Hoàng Cầm, cùng với các cây bút nổi tiếng của thế hệ sau này là Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài… |
Nhớ những ngày tháng khó khăn, bố tôi vì quá bận việc nước, rất ít khi gặp tôi, không có mẹ chỉ dạy, tôi cứ tự nhiên lớn lên như cái cây. Những chuyện vệ sinh cỏn con cũng chẳng biết. Sau khi đi chơi với nhau nhiều lần, anh mạnh dạn hôn tôi. Nhưng rồi anh hỏi: “Em không biết đánh răng à?” – “Dạ, em không biết”. Tôi không xấu hổ mà trả lời ngay, còn anh thì lặng đi một hồi. Từ hôm đó, anh chăm tôi như chăm con gái, dạy cho tôi đánh răng, chải đầu, bắt cả chấy nữa. Hồi đó con gái để tóc dài là bị chấy nhiều lắm. Vì không có mẹ, lại hay vắng cha, tôi cũng đã dành hết tất cả mọi tình cảm của mình cho anh, đến nỗi, đã có lúc, tôi nghĩ, nếu anh yêu người khác, lấy người khác, tôi vẫn tình nguyện theo anh cho đến hết cuộc đời.
Và sự hy sinh
Được ở bên cạnh anh, lúc nào tôi cũng thấy hạnh phúc. Vì vậy mà tôi học giỏi lắm. Tôi biết anh rất thích những người giỏi. Một hôm tôi nhảy cẫng lên: “Anh ơi, em được đi Liên Xô!”, ai ngờ anh nghiêm mặt: “Thề là không được đi Liên Xô nhé, không thì anh mách bố!”, tôi chưng hửng. Thấy tôi nước mắt lưng tròng, anh vội vàng ôm lấy tôi và nói: “Thôi được, cưới xong anh cho đi!” Đám cưới của chúng tôi tổ chức ở một căn hộ tập thể nhỏ xíu nhờ nhà của thầy giáo, mỗi người chỉ được mời một người bạn thân nhất và có thêm mấy thầy ở trường anh. Hôm đó thầy Trương Tửu thay mặt hai bên gia đình tuyên bố cho chúng tôi thành vợ chồng. Quà tặng là mấy quyển vở trắng, còn tôi thì được bạn bè tặng một cái nón. Nhưng cưới xong thì ai ở nhà nấy. Vì lúc đó anh còn đi làm gia sư cho một gia đình tư sản ở Hà Nội, ăn ngủ ở nhà họ nên không đưa tôi về được, nhà tôi thì anh không về. Cưới chồng mà vẫn ở với bố, chồng thì ở tận nơi xa.
Tôi chưa kịp đi Liên Xô thì có bầu đứa con đầu lòng, lúc đó tôi còn học năm nhất đại học Tổng hợp Hà Nội. Bốn năm đại học, ba đứa con lần lượt chào đời. Mỗi lần thấy các thầy ái ngại nhìn mình, tôi lại càng ép mình học giỏi để khỏi bị chê cười. Sau khi tốt nghiệp tôi về làm ở uỷ ban khoa học Nhà nước, được phân công vào ban dịch thuật làm từ điển tiếng Nga. Rồi chuyện anh vì dính đến các thầy mà anh phải rời trường đại học, về sở Giáo dục, ở đây các đồng nghiệp thấy cũng thương nên cho dạy lớp bét, cộng thêm việc hàng ngày phải đi lấy thông tin xem dân học hành thế nào. Thế là buổi sáng dạy học lớp bình dân, buổi chiều anh nhờ tôi làm cái việc đi lấy tin để anh ở nhà viết Vũ Trọng Phụng. Một thời gian sau anh lại gặp nạn vì quyển Vũ Trọng Phụng. Anh đau khổ gác bút, còn tôi thì một mình đi làm, nuôi cả con lẫn cháu. Vậy mà anh còn có cái thú chơi đồ cổ. Những ngày cuối năm nhất là vào 28, 29 tết, ở quê họ mang đồ cổ lên Hà Nội bán kiếm tiền ăn tết. Anh bảo tôi cho vay tiền tem phiếu để mua đồ cổ. Tôi chưa từ chối anh điều gì, mặc cho không biết ngày mai, ngày kia sẽ lấy gì mà ăn.
Những bước đi tái sinh
Năm 1996, anh bị đột quỵ, bị liệt một bên. Anh tuyệt vọng và cứ trăng trối. Tôi phải giải thích rõ: “Anh không bị gì cả, chỉ là do hút thuốc nhiều quá mà một bên người của anh không cử động được. Đầu óc của anh vẫn hoạt động tốt, tim anh vẫn đập khoẻ, làm sao chết được”.
Rời khỏi bệnh viện, tôi bắt đầu những ngày tập cho anh bước đi. Đầu tiên là ngồi dậy, đứng lên. Sau đó là đi từng bước một. Những ngày ấy thật là diệu kỳ, tôi thấy rõ anh mỗi ngày nở một nụ cười tươi hơn, hồn nhiên hơn. Rồi cái ngày anh một tay vịn cầu thang, một tay vịn vai tôi bước đi, cảm giác được sóng đôi bên nhau như ngày nào như tiếp thêm sức mạnh cho chúng tôi. Sau hai năm anh đã tự đi được và bắt tay vào viết cuốn Vườn khuya một mình. Anh đọc cho tôi chép, tôi biên tập lại và tự tay đem đến nhà xuất bản, sửa bản in thử ở nhà in. Khi cuốn sách ra đời, anh, như thường lệ, chẳng nói gì, chỉ cầm tay tôi và bất ngờ hôn lên trán tôi. Đó là nụ hôn đẹp nhất mà tôi từng có sau bao nhiêu năm chung sống.
Tôi biết anh rất quý bạn bè. Những tháng ngày gian khổ, chính bạn bè anh, những người cùng chí hướng, những văn nhân với lòng yêu nước, với tài năng nghệ thuật quý giá đã đến để cùng anh chia sẻ mọi trăn trở, mọi nỗi niềm.
Cao Thị Xuân Cam (kể)
Ngân Hà (ghi)
Theo SGTT