(TuanVietNam) – Phần 2 bài viết của Brian P.Klein trên tạp chí Ngoại giao (Foreign Affairs) số báo ra tháng 7-8/2009 cho thấy : Cường điệu hóa quá mức một lĩnh vực cũng làm thay đổi động cơ của các doanh nhân, chính trị gia và dân chúng theo hướng tiêu cực.

Tiêu dùng ngầm

Đầu tư không đúng dẫn tới phát triển tài sản thực tế một cách mù quáng bất chấp nhu cầu thực tế (không kể đầu cơ) rất yếu. Ảnh: sbsc.

Dựa quá nhiều vào xuất khẩu khiến một quốc gia trở nên dễ tổn thương hơn trước sự suy sụp kinh tế ở một nước khác. Hơn nữa, một cán cân thanh toán cân bằng là cần thiết để sự mất giá của tài sản này được bù lại bằng sự tăng giá của một tài sản khác. Cường điệu hóa quá mức một lĩnh vực cũng làm thay đổi động cơ của các doanh nhân, chính trị gia và dân chúng theo hướng tiêu cực.

Kinh nghiệm của Campuchia làm rõ điều này. Trước cuộc khủng hoảng hiện nay, nền kinh tế Campuchia tăng trưởng mạnh nhờ xuất khẩu quần áo giá rẻ, chiếm 80% tổng kim ngạch xuất khẩu của nước này, đa số xuất sang Mỹ. Nhưng khi nền kinh tế toàn cầu gặp khó khăn, các lệnh mua “bốc hơi”. Từ tháng 9/2008 đến đầu năm 2009, khoảng 50.000 công nhân may quần áo – tức là 17% tổng lao động – đã mất việc làm. Nếu năm 2007, tăng trưởng kinh tế nước này đạt 10% thì năm nay, WB ước đoán sẽ chỉ đạt 1% – điều sẽ dẫn tới tình trạng nghèo đói gia tăng trong năm 2009.

Tập trung thái quá vào xuất khẩu cũng bóp méo nền kinh tế. Đầu tư của tập thể, chi tiêu của chính phủ và đầu tư trực tiếp nước ngoài đều đổ vào lĩnh vực xuất khẩu, trả giá bằng nền kinh tế nội địa mênh mông. Hàng hóa xã hội như giáo dục công, y tế, bảo hiểm thất nghiệp và an sinh xã hội thường không được quan tâm đúng mức.

Điều này giải thích tại sao các nền kinh tế châu Á tiết kiệm nhiều như vậy : họ cần “tự đảm bảo cho mình” và tự đặt lên vai mình những gánh nặng kinh tế này. Trên toàn khu vực, một hộ gia đình điển hình tiết kiệm từ 10 – 30% thu nhập hàng năm của họ. Tiết kiệm quốc gia (bao gồm cả tiết kiệm của chính phủ và tập thể) tương đương một nửa GDP của Trung Quốc, Malaysia và Singapore. Dù cần kiệm là một thói quen thường ngày, nhưng trong trường hợp này, nó lại là một thói quen xấu, bởi nó rút tiền tệ khỏi tiêu dùng, nơi mà những tờ giấy bạc này có thể được sử dụng để cải thiện mức sống của người dân và toàn bộ nền kinh tế quốc gia.

Cầu trong nước ở châu Á còn bị kìm lại bởi một số nhân tố khác, bao gồm tình trạng luôn thiếu nguồn tài nguyên. Đầu tư không đúng dẫn tới phát triển tài sản thực tế một cách mù quáng bất chấp nhu cầu thực tế (không kể đầu cơ) rất yếu. Việc xây dựng nhà mới vẫn tiếp tục ở Bắc Kinh và Thượng Hải bất chấp tình trạng nhà bỏ không rất nhiều. Các ngân hàng nhìn chung ủng hộ các dự án rộng lớn và những dự án của chính phủ vốn được đánh giá là nguy cơ vỡ nợ thấp và có thể cung cấp các khoản phụ thêm “ngon” hơn. Đây là một vấn đề đặc biệt khi biết rằng các công ty nhỏ thường dùng vốn hiệu quả hơn, sáng tạo hơn và phân tán tài sản rộng rãi hơn.

Tương tự, việc cho vay cũng hướng một cách bất cân đối tới các lợi ích chính trị và kinh tế mạnh, dù đó là các công ty nhà nước ở Trung Quốc hay các công ty gia đình và tập đoàn lớn ở Hồng Công, Ấn Độ, Nhật Bản, Malaysia và Hàn Quốc. Tại Trung Quốc, các công ty vừa và nhỏ chiếm 70% GDP nhưng chỉ góp 20% vào nguồn lực tài chính quốc gia – xu hướng không thể giải thích đơn giản là vì nguồn vốn dồi dào của các công ty lớn.

Sự ưu tiên cho các dự án lớn và công ty lớn đã đặt quyền lực vào tay giới chóp bu. Ngay trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính châu Á cuối những năm 1990, 15 gia đình giàu có nhất Hồng Công kiểm soát 84% GDP của hòn đảo này. Tại Malaysia, con số này là 76%. Tại Singapore và Philippines là gần 50%. Dù nhiều thay đổi đã xảy ra từ đó tới nay, song các triều đại gia đình từ Hồng Công đến New Delhi vẫn có tầm ảnh hưởng lớn đến các nền kinh tế nước họ. Samsung, do gia đình nhà Lee kiểm soát, hiện chiếm gần 1/5 tổng kim ngạch xuất khẩu của Hàn Quốc.

Sự tập trung tài sản và quyền lực này đã góp phần làm suy yếu sự lãnh đạo của tập thể trên toàn khu vực. Tại Nhật Bản, nhiều ông chủ đã tự cao tự đại mà không đếm xỉa cả các cổ đông trong và ngoài nước. Tại Hàn Quốc, nhiều ủy viên Ban quản trị bị buộc tội biển thủ, hối lộ hoặc trốn thuế, nhưng vẫn đường hoàng trở lại công ty vì tầm quan trọng của cá nhân họ đối với nền kinh tế. Sự đóng cửa trong năm nay của công ty Satyam Computer Services – một công ty công nghệ thông tin của Ấn Độ đã gian lận sổ sách nhiều năm liền – đã khiến cộng đồng doanh nhân Ấn Độ phải bắt đầu xem xét một cách nghiêm túc việc quản lý công ty. Dù các hành động phi pháp không chỉ xảy ra ở châu Á – Mỹ đã phải chứng kiến sự tan rã của một số tập đoàn khổng lồ – song, trách nhiệm giải trình vẫn thiếu.

Vì vốn quá tập trung, nên tăng trưởng của tầng lớp trung lưu châu Á bị kìm hãm. Dù khó tin được vào mắt mình khi đến thăm các thành phố lớn trong khu vực – mới được phủ bằng những con phố xa hoa, những quán ba đắt tiền, và những chiếc xe hơi đời mới – nhưng trên thực tế, tiêu dùng tư nhân và tiền lương công nhân tỷ lệ thuận với sự sụt giảm của GDP toàn khu vực hai thập kỷ qua, dù nó đã từng tăng tuyệt đ

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *