Bà Nguyễn Thị Thế kể lại những năm tháng cuối cùng của người em trai (Thạch Lam mất ngày 27/6/1942 vì bệnh lao) : "Đau ốm, chú không cho bất cứ bạn bè hay họ hàng nào vào thăm. Chỉ người thân trong nhà mới được vào phòng thôi. Vì thích cây liễu nên chú bắt kê giường làm sao cho chú nằm vẫn nhìn thấy cành liễu rủ xuống khung cửa sổ. Một hôm, thằng người nhà không biết, dứt xuống mấy cành lòa xòa sát đầu. Khi tôi sang, chú kể chuyện và cứ tiếc mãi. Từ đó về sau, tôi phải dặn tất cả mọi người không ai được dứt một cái lá nào của chú". Tình tiết làm tôi không thể không nhớ tới bối cảnh trong truyện ngắn "Chiếc lá cuối cùng" của nhà văn Mỹ O.Henry.

Cũng theo hồi ức của bà Nguyễn Thị Thế thì bản tính Thạch Lam "ưa tĩnh mịch nên khi có con, vú em được lệnh cấm không được ru và cũng cấm không được để nó khóc. Ngoài cổng, có khi chú còn cho treo một cái biển đề : "Ai hỏi gì xin lên tòa soạn". Và bà Thế kết luận, những tháng ngày cuối đời, Thạch Lam "khó tính đến nỗi hầu như chỉ có thím là chiều chuộng được chú, còn tôi và mẹ tôi cũng đành chịu".

Thẳng thắn và minh bạch

Cách đây ít năm, Nhà xuất bản Văn học của ta có cho ấn hành cuốn tiểu thuyết "Đi tìm thời gian đã mất" của nhà văn Pháp Marcel Proust. Hẳn ít người biết rằng, ngay từ cuối những năm những năm 30 của thế kỉ trước, Thạch Lam đã dịch và giới thiệu với bạn đọc Hà thành cuốn tiểu thuyết này.

Chỉ có điều, ở bản dịch này, Thạch Lam đã dịch sai một số chi tiết. Chẳng hạn, trong nguyên bản có câu chuyện "La petite Madeleine", Thạch Lam dịch là "Cô bé Madeleine". Thực ra, xem truyện, người ta có thể thấy "La petite Madeleine" có nghĩa là "Cái bánh Madeleine".

Điều đáng nói hơn cả là sau một thời gian dài (đến gần ba tuần) bản dịch đó được in trên báo Ngày nay vẫn chưa có ai phát hiện và lên tiếng về sai sót đó cả. Chợt một ngày, cũng trên tờ báo đó, Thạch Lam thẳng thắn nêu cái nhầm của mình. Ông thú nhận điều sai lầm đó ông biết được là nhờ sự mách bảo của một độc giả. Tác giả ngỏ ý cảm ơn độc giả nọ và mong sẽ nhận được nhiều chỉ dẫn về những khiếm khuyết khác.

Nếu đối chiếu với việc ngày nay, có những trường hợp sai sót rành rành, mặc dù được bạn đọc viết thư góp ý kỹ càng, chi tiết, song nhiều người vẫn muốn lờ đi, cho qua, ta sẽ thấy động thái trên của Thạch Lam thực đáng quý.

Còn có một "ông đồ" trong truyện ngắn của Thạch Lam

Bạn đọc yêu văn học nước ta hẳn không mấy ai không biết đến tên tuổi nhà thơ Vũ Đình Liên và bài thơ bất hủ "Ông đồ". Bài thơ này cho thấy sự biến thiên của thời cuộc đã tác động lớn lao đến một số phận người trong xã hội. Vì bài thơ có nói đến mưa xuân, đến hoa đào nở, đến câu đối, đến giấy đỏ… cho nên cũng có rất nhiều duyên cớ để người ta nhắc tới, điểm tới vào các dịp Tết Nguyên đán, gợi cho ta nhớ tới một tầng lớp người đáng kính mà các bạn trẻ ngày nay dường như ít có cơ gặp lại…

Bài thơ "Ông đồ" của Vũ Đình Liên ra mắt lần đầu năm 1936, trên báo Tinh hoa. Nhiều bạn trẻ hôm nay sẽ lấy làm ngạc nhiên khi biết rằng, trên báo Phong hóa số ra vào tháng giêng năm ấy, có đăng truyện ngắn "Ông đồ nho" của nhà văn Thạch Lam – một truyện ngắn khi đọc, ta có cảm tưởng như đó chính là xuất xứ cho bài thơ của Vũ Đình Liên, hoặc giả là sự triển khai bằng văn xuôi bài thơ nói trên. Bởi đối chiếu hai tác phẩm nói trên, ta thấy chúng có ý tưởng và tinh thần khá gần gũi nhau.

Vì nhiều bạn đã thuộc bài thơ "Ông đồ", tôi chỉ xin trích ra ở đây một số nội dung, một số đoạn trong truyện ngắn "Ông đồ nho" của Thạch Lam. Ví dụ : "Mỗi năm tết đến, ngày phiên chợ cuối năm, bao giờ cũng có một ông đồ đến thuê cái hiên nhà tôi để viết câu đối bán. Ông là người đã già, râu tóc đã bạc phơ cả và chữ viết rất tốt. Vì vậy, chữ ông viết ra bán rất chạy, và người ta tranh nhau mua".

Có một điểm hơi khác với bài thơ của Vũ Đình Liên (ông đồ chịu sự tác động của một xã hội đang trên đà Âu hóa, bút lông được thay bằng bút sắt), ông đồ trong truyện của Thạch Lam đã bị mất khách vì một người bán tranh Tàu. Tranh của anh chàng này vẽ những cô gái hồng hào, mũm mĩm, giá lại rẻ, khiến không ai thiết gì mua câu đối của ông cụ nữa.

Nhà văn Thạch Lam đã viết về tình cảnh này của ông cụ bằng một đoạn văn thật cảm động : "Cụ ngồi suốt buổi chợ mà không bán được tí gì. Cụ thu xếp bút nghiên gọi tôi đến (tức tác giả, bấy giờ còn bé – PTC) ẵm vào lòng rồi bảo rằng : "Năm nay không có xu nào cho em ăn quà, em ạ!". Tôi ngẩng lên thì thấy ông cụ rơm rớm nước mắt. Đến tối, thầy tôi ra đ&ograv
e;i tiền thuê hiên, ông cụ không có, thầy tôi bắt ngay cái bút và hai vế câu đối rồi đuổi ông cụ đi. Từ năm sau, tôi không thấy cụ đem bán chữ nữa. Hỏi người vú tôi thì vú bảo, nghe đâu ông cụ nghèo túng đã chết từ tháng giêng kia rồi và không có con cái gì cả".

Tuy có một vài tiểu tiết khác nhau, nhưng ở bài thơ của Vũ Đình Liên và truyện ngắn của Thạch Lam đều có một điểm chung : Đó là lòng thương người vô tận. Đọc xong hai tác phẩm nói trên, chúng ta không thể giấu được lòng thương cảm.

Phạm Thành Chung
Nguồn : CAND

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *