…Nghệ thuật không có cái đỉnh cuối cùng. Có những cái đỉnh càng leo càng gần, nhưng cái đỉnh của nghệ thuật, của văn học càng leo càng thấy xa. Với tôi, văn học là con đường càng đi càng xa, đi mãi không dừng…

Tôi nhớ năm 11 – 12 tuổi, ông già hay nhắc tôi về tấm gương trong sạch của nhà cách mạng Châu Văn Liêm. Những nhà cách mạng nổi tiếng cũng từng đặt chân qua làng tôi như Bác Tôn Đức Thắng, nhà cách mạng Ung Văn Khiêm v.v… Chú tôi là Đảng viên Cộng sản thế hệ đầu tiên những năm 1930. Phát hiện chú tôi mang truyền đơn về cất giấu, hội tề làng xã đến nhà tôi khám xét. Nể cha tôi, họ không bắt. Dù vậy, cha tôi cũng phải bỏ làng một mình lên Nam Vang kiếm sống. Mẹ tôi đau buồn sanh bệnh. Cha tôi từ ông chủ giờ đành phải đi làm thợ cho tiệm vàng Trái Tim Đỏ vốn rất nổi tiếng ở Phnom Penh. Từ ấy, gia đình cũng bắt đầu suy sụp. Tôi học ở trường huyện Chợ Mới, mỗi kỳ nghỉ hè hay về chơi với bên nội. Nhà bên nội cách nhà tôi gần hai cây số. Sau này, tất cả dòng họ bên nội tôi đều theo đạo Hòa Hảo. Riêng cha tôi thì không. Do đó, từ một gia đình gắn bó thương yêu nhau đã xảy ra xung đột về tư tưởng, dẫn đến bi kịch.

– Điều đó nhất định ảnh hưởng đến quãng đời thơ ấu của ông?

Chưa hiểu hết, nhưng tôi cũng buồn lắm! Nhà nghèo, nhờ học giỏi, tôi được học bổng, học hết Primaire năm 1944. Cũng năm đó, cha tôi từ Nam Vang trở về. Bà nội và mẹ đau nặng. Tôi đành nghỉ học đi bán thuốc lá dạo trong chợ kiếm tiền giúp gia đình. Biết tôi là con cậu Hai, giàu có một thời, giờ phải cơ cực, bà con ai cũng thương nên mua nhiều! Tuổi thơ tôi không còn nữa. Hơi chán đời, tôi bắt đầu lao vào đọc rất nhiều kinh Phật giáo Hòa Hảo, Tin Lành, Thiên Chúa. Sách gì liên quan đến đạo là tôi đọc. Đồng thời, lúc đó tôi cũng nghe mọi người "xì xầm" về Việt Minh, Cộng sản ở trong nhà mình. Rồi tôi lên tận Tân Châu vấn thuốc lá cho một người bạn cha tôi. Lại gặp một ông già đang lập đạo, lên cơ. Tôi tò mò…

– Tuổi thơ của ông, của những người cùng thế hệ ông và trước nữa – mà tôi có dịp tiếp xúc, phỏng vấn – đều có bi kịch. Có lẽ một phần nhờ đó mà họ dễ dàng tìm đến với cách mạng, làm nên sự nghiệp về sau. Với ông, con đường đến với cách mạng có gì đặc biệt không?

Cũng bình thường thôi. Ngày 23 tháng 9 năm 1945, Nam bộ kháng chiến, tôi rời Tân Châu về quê, rồi đi Sa Đéc làm thơ ký cho một tiệm vàng. Ông chủ là bạn của cha tôi. Tháng 4 năm 1946, tôi gia nhập bộ đội, làm liên lạc. Bây giờ nghĩ lại, phải nói thật rằng, tôi đi bộ đội không phải vì ham vui, mà đi để tự giải phóng mình ra khỏi cái không khí u ám của xã hội lúc bấy giờ, đi với ý thức đánh Tây cứu nước, đi với một quả tim nồng nàn. Đơn vị tôi về sau thuộc cánh quân Liên chi D2K, hành quân từ Long Châu Sa (Long Xuyên, Châu Đốc, Sa Đéc) băng sông Tiền, qua sông Hậu, về U Minh, trấn giữ chiến trường Bảy Núi, tức Thất Sơn, mở nhiều chiến dịch.

Xuất hiện Con chim vàng… trở về Đất lửa

– Trở lại với cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông, nó có một số phận ra sao?

Năm 1954, tập kết ra Bắc, tôi mang theo. Đơn vị tôi đóng ở Thanh Hóa. Đây là thời điểm tôi thực sự bắt đầu tiếp xúc với văn học. Tôi đọc như người bị đói sách. Tôi được đọc qua các tác phẩm "Người mẹ" của Gorki, "Thép đã tôi thế đấy" của Nicolai Alechsevik Ostrovsky cùng truyện của Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Tô Hoài… Đọc của các bậc đàn anh, tôi thấy tiểu thuyết mình viết quá dở, chưa thể trở thành một tác phẩm văn học. Nhìn lại, 300 trang viết tay chỉ mới là tư liệu, chưa phải là văn.

– Chính vì vậy, ông chuyển sang "thử mình" bằng thể loại truyện ngắn?

Đúng vậy! Tôi quyết định viết truyện ngắn để luyện tay nghề, sau đó sẽ sửa chữa lại cuốn tiểu thuyết. Lúc đó, tôi đang là vô địch bóng bàn của sư đoàn, được cấp trên gợi ý đưa ra Hà Nội đào tạo vận động viên, do Tổng cục Thể dục Thể thao tuyển chọn. Mới ra miền Bắc, nằm ở một làng quê Thanh Hóa, người nào mà không muốn ra Hà Nội. Nhưng tôi không đi, quyết ở lại để viết văn. Đến năm 1955, tôi chuyển ngành với cấp bậc chuẩn úy, về làm biên tập văn nghệ Đài Tiếng nói Việt Nam. Ra Hà Nội, tôi nghĩ muốn sửa cuốn tiểu thuyết đòi hỏi phải có thời gian tập trung và cần có sự ủng hộ của Hội Nhà văn, mới viết được. Hội viên nhà văn bấy giờ, mỗi năm được nghỉ ba tháng ăn lương để đi viết. Tôi bắt tay viết truyện ngắn đầu tiên "Con chim vàng" để "trình làng" với làng văn Hà Nội.

– Nghĩa là tác phẩm đầu tiên của ông là một tiểu thuyết, còn tác phẩm ra mắt đầu tiên là một truyện ngắn. Vâng, có thể nói, "Con chim vàng" là một trong những truyện ngắn hay nhất của
ông. Nó hấp dẫn bạn đọc không chỉ ở bố cục, mà còn bằng hình ảnh buồn và gợi cảm xuyên suốt như một tứ thơ.

Tôi nhớ khi "Con chim vàng" vừa xuất hiện trên báo Văn nghệ, nhiều người nói rằng đây là cây bút viết được truyện ngắn. Nó được dịch ra ngay bản tiếng Pháp. Bấy giờ, đang thời kỳ cải cách ruộng đất, đề tài văn học chủ yếu là người nông dân; và tôi hướng đề tài ấy về đề tài thiếu nhi. Hưng phấn, tôi tiếp đà "quất" luôn một loạt truyện ngắn, mà năm 1958 được gom lại in thành tập "Người quê hương".

– Vậy còn cuốn tiểu thuyết đầu tay, ông "trở về" với nó lúc nào?

Năm 1956, Văn nghệ quân đội mở trại sáng tác ở Nghi Tàm, trong một ngôi nhà dân, tôi được đi dự. Hà Nội những năm ấy, mỗi người thuộc lớp nhà văn đi trước đều nhận một số nhà văn trẻ để giúp đỡ. Tôi được nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đỡ đầu. Viết được cái gì tôi cũng đưa anh góp ý. Trong những ngày đầu viết văn, nhà văn đàn anh gần gũi nhất đối với tôi là nhà văn Nguyễn Huy Tưởng. Sau khi đọc một số bản thảo của tôi và nghe tôi kể những câu chuyện về chiến trường Nam bộ, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã nói một câu mà tôi nhớ đời : "Đất Nam bộ là đất tiểu thuyết!"

Về sau, bài tham luận của tôi đọc tại Đại hội Hội Nhà văn Việt Nam lần thứ hai, tôi lấy tựa Đất Nam bộ là đất tiểu thuyết. Ở trại sáng tác Nghi Tàm, tôi sửa lại cuốn tiểu thuyết và đặt tên cho nó. Tôi lang thang các hiệu sách Hà Nội để tham khảo, tìm một cái tên. Cuối cùng, tôi cho "nó" cái tên "Đất lửa". Quyển tiểu thuyết mang cả tâm trạng của tôi thời bước đầu trưởng thành. Xong bản thảo, tôi đọc cho các anh Nguyễn Huy Tưởng, Kim Lân, Hoàng Trung Thông cùng một vài nhà văn khác nghe. Nhà văn Kim Lân đề nghị trích một chương đăng trên báo Văn nghệ. Do tình hình chính trị lúc bấy giờ, chưa thể in hết toàn bộ tiểu thuyết, phải đợi đến năm 1963 nó mới chính thức ra đời.

– Ông có thể cho biết lý do cụ thể được không?

Anh em văn nghệ chưa hiểu hết sự phức tạp của chiến trường Nam bộ lúc ấy, nhất là vấn đề tôn giáo.

– Theo ông, "Đất lửa" có một vị trí thế nào trong toàn bộ sự nghiệp văn học của mình?

Dư luận trong nghề cho rằng "Đất lửa" là tiểu thuyết thành công nhất trong số bốn tiểu thuyết của tôi : Đất lửa, Nhật ký người ở lại, Mùa gió chướng Dòng sông thơ ấu. Tôi cũng nghĩ như vậy.

– Có bao giờ ông hình dung nếu "Đất lửa" vội vàng in ngay bằng bản thảo viết ở rừng U Minh năm 1952, thì nó…

Sẽ chết. Vì không có giá trị văn học.

– Qua đó, ông nghiệm ra điều gì?

Một tác phẩm đứng được theo thời gian phải là một tác phẩm được viết bằng tâm huyết, lòng say mê và vốn sống của mình. Đồng thời, không thể thiếu "tay nghề". Tôi muốn nói đến trình độ nghệ thuật và kỹ thuật của nhà văn.

“Chi tiết có thể ví như bụi vàng”

– Thưa ông, thời đánh Mỹ, ông từ Hà Nội trở về Nam lúc nào?

Năm 1966. Truyện ngắn "Chiếc lược ngà" là tác phẩm đầu tiên khi tôi trở về Đồng Tháp Mười. Nó được viết trên xuồng. Tôi nhớ lúc bấy giờ, công chúng miền Bắc rất khao khát tác phẩm viết về miền Nam. Có một số nhà văn đang ở miền Bắc, qua thư từ, qua những câu chuyện kể mà hư cấu viết nên tác phẩm. Tôi cũng viết tiểu thuyết "Nhật ký người ở lại" in năm 1962. Nhưng phải thừa nhận rằng, những tác phẩm qua trung gian đó, nó không thật tươi, không thật sinh động, vẫn mang cái không khí thời đánh Pháp, chưa phải là cuộc chiến tranh đán Mỹ. Do đó, khi lên đường về Nam, tôi nghĩ : phải viết những cái gì nếu không đi chiến trường thì không thể tưởng tượng được!

– Ý thức nghề nghiệp ấy rõ ràng không phải nhà văn nào cũng có được. Nó có thể sánh ngang với phát minh trong khoa học. Ông đã "cụ thể hóa" ý tưởng độc đáo ấy của mình lên trang viết ra sao?

Khá nhiều. Chẳng hạn, chi tiết trực thăng soi đèn xuống cánh đồng ban đêm để "tìm và diệt". Ác liệt thế. Nhà văn lẫn bạn đọc miền Bắc làm sao hình dung ra được! Hồi đánh Pháp, đi qua cánh đồng ban ngày mới ngụy trang. Còn đánh Mỹ, ban đêm cũng phải ngụy trang. Vì máy bay trực thăng luôn soi đèn. Dakota thả trái sáng. Nấu cơm nấu nước tuyệt đối không để khói. Đi tắm sông suối tuyệt đối không để dợn sóng. Chính những chi tiết đó đã nói lên được cái không khí ác liệt của cuộc chiến tranh chống Mỹ, khác xa chống Pháp. Hay như chuyện con gà trống không được quyền gáy : chuyện bỏ đứa trẻ vào bịch ni-lông nhấn xuống nước khi máy bay bắn… thời đánh Pháp cũng không có. Nếu nhà văn không lăn l

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *