Nhằm tôn vinh những nhà văn đã có nhiều cống hiến cho văn học ở vùng đất Nam bộ, Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh vừa bắt đầu khởi động những cuộc hội thảo về cuộc đời và tác phẩm của họ. Và nhà văn Nguyễn Quang Sáng là người đầu tiên đã vinh dự được chọn. Một cuộc hội thảo về ông đã diễn ra thật hào hứng với sự tham gia của nhiều nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà báo, nghệ sĩ ở trong và ngoài nước.

Trong sự nghiệp cầm bút, nhà văn Nguyễn Quang Sáng cho ra đời bốn tiểu thuyết, hơn mười tập truyện ngắn, hàng chục kịch bản phim. Năm 2000, ông được Chủ tịch nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh. Số lượng tác phẩm như trên chưa phải đồ sộ, song cái "chất văn" nổi bật tiêu biểu của một phong cách, phong cách Nguyễn Quang Sáng, thì đã được thừa nhận.

Tôi không bao giờ mơ tưởng mình trở thành nhà văn!

Đọc một truyện ngắn gần đây của Nguyễn Quang Sáng – Vểnh râu, nhà văn Tô Hoài nhận xét : "Lần này đọc của Sáng, tôi thấy đã thuần lắm của cốt cách văn phong một trung tâm – miền Nam là một trung tâm, mà trong văn không có cái nhàn nhạt chữ nghĩa dùng cho miền nào cũng được". Thành công nhất định ở tiểu thuyết, có năng khiếu viết kịch bản phim, thế mạnh thực sự ở truyện ngắn, Nguyễn Quang Sáng là một người kể chuyện bẩm sinh. Giọng kể hồn hậu, mộc mạc, tự nhiên, lôi cuốn như mảnh đất Nam bộ quê hương ròng ròng sự kiện, chất chứa nhiều bí ẩn. Không chỉ qua trang viết, giọng kể của nhà văn còn hấp lực cả khi được trực tiếp trò chuyện cùng ông.

– Thưa ông, được biết ngay lần xuất hiện đầu tiên trên báo Văn nghệ năm 1956 với truyện ngắn Con chim vàng, ông liền được dư luận chú ý và đánh giá là cây bút văn xuôi có tài, đầy triển vọng. Trong văn chương, thành công ngay bước đầu như thế thật hiếm!

Tôi bắt đầu cầm bút từ năm 1952 lúc còn ở rừng U Minh thời đánh Pháp. Mãi đến năm 1956, truyện ngắn đầu tiên Con chim vàng mới được in trên báo Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam. Từ ấy đến nay, tôi đã có được một số tác phẩm, vài giải thưởng, nhưng tôi luôn tự hỏi mình đã thật là nhà văn hay chưa? Thiệt lòng, tôi đến với nghề viết văn rất ngẫu nhiên. Từ nhỏ đến lớn, tôi không bao giờ mơ tưởng mình trở thành nhà văn!

– Không mơ tưởng, nhưng cuối cùng vẫn trở thành nhà văn, một nhà văn nổi tiếng, tiêu biểu của Nam Bộ. Phải chăng trong ông tiềm ẩn một năng khiếu viết văn bẩm sinh?

Tôi không lý giải được. Có điều, thời học Trường trung học kháng chiến Nguyễn Văn Tố, tôi ngồi cùng bàn với Đoàn Thế Hối, tức về sau là nhà văn Lê Vĩnh Hòa. Hai thằng rất thân nhau, mà Lê Vĩnh Hòa sớm bộc lộ năng khiếu văn chương, làm luận văn lúc nào cũng được thầy khen, còn tôi thì điểm chỉ tàm tạm. Lê Vĩnh Hòa có cây đàn banjo. Tôi chơi đàn này khá hay. Nhiều người nghĩ rằng chắc sau này tôi sẽ trở thành nghệ sĩ chơi đàn đi khắp miền sông rạch thời đánh Pháp. Có lần người yêu của tôi nghe tiếng đàn trên chiếc xuống ngang qua, biết là tiếng đàn của tôi, liền gọi…

Cuộc gặp gỡ một nữ tín đồ Hoà Hảo bí ẩn

– Vậy duyên cớ nào ông bắt tay vào viết văn, thưa ông?
Chuyện tôi viết văn lạ lắm! Năm 1950, ra trường, tôi về Phòng chính trị Bộ Tư lệnh phân khu miền Tây Nam Bộ, làm công tác nghiên cứu về tôn giáo, cũng thường trực tiếp tham gia các chiến dịch. Năm 1951, tôi về Long Châu Hà, thuộc tỉnh An Giang, hoạt động trong những vùng của đồng bào tín đồ Phật giáo Hòa Hảo và tình cờ gặp một nữ tín đồ Hòa Hảo mà mọi người gọi là cô Tư, là nguyên nhân trực tiếp để tôi viết văn.

– Một nữ tín đồ Hòa Hảo? Vậy giữa ông với…

(Cắt ngang) Chắc anh muốn hỏi mối quan hệ giữa tôi và cô Tư chớ gì? Không có mối quan hệ nào hết. Lúc đó, trên Bảy Núi có một con voi điên, phá phách dữ quá, bộ đội phải săn lùng. Đến một đỉnh núi, bỗng thấy một người đàn bà đang rút kiếm chống chọi với voi. Anh em bộ đội kịp bắn hạ con voi điên. Hỏi chuyện, người đàn bà không nói. Thấy lạ, bộ đội đưa cô về căn cứ. Khi gặp ông Huỳnh Văn Trí, tức Mười Trí, vốn là sư thúc Hòa Hảo đang lãnh đạo tín đồ đánh Pháp, người đàn bà mới chịu nói.

(Tôi đang hồi hộp nghe, thì nhà văn dừng lại uống một hớp trà, ngả lưng vào thành ghế salon, rít một hơi thuốc dài, rồi mới kể tiếp. Nhìn dáng dấp của ông, không hiểu sao lúc thì tôi cảm giác như đang ngồi trước một lão nông tri điền, lúc thì như một bậc tu sĩ vùng Thất Sơn!)

Người đàn bà ấy nguyên là một tín đồ Hòa Hảo yêu nước, thấy đạo mình chia năm sẻ bảy, bà chán đời, bỏ lên núi Cấm, tu và thề không nói chuyện với ai. Gặp được sư thúc Mười Trí, người đàn bà mà mọi người quen gọi là cô Tư ấy đã tình nguyện đi tuyên truyền vận động đồng b&ag
rave;o Hòa Hảo theo kháng chiến đánh Pháp cứu nước. Cô Tư hết sức xông xáo, nhiệt tình vì nghĩa lớn. Một lần trên đường đi tuyên truyền, cô Tư bị địch bắn…

– Một hình ảnh tín đồ Hòa Hảo yêu nước thật xúc động! Nhưng thưa ông, như trên đây ông nói, cô Tư là nguyên nhân trực tiếp để ông bắt đầu viết văn, nghĩa là thế nào?

Từ câu chuyện cô Tư mà tôi chợt nhớ đến quê tôi là làng Mỹ Luông, cũng là làng theo đạo Hòa Hảo và xảy ra nhiều bi kịch giữa nội bộ nông dân với nhau. Câu chuyện cô Tư cùng kỷ niệm quê hương đã làm nảy ra trong đầu tôi một cốt truyện tiểu thuyết, mà nhân vật chính là những tín đồ Phật giáo Hòa Hảo. Tôi hi vọng nếu viết được cuốn tiểu thuyết này sẽ thức tỉnh bà con Hòa Hảo thấy được bi kịch của chính mình, cùng nhau đi theo Đảng đánh Pháp.

Viết xong chết cũng được

– Như vậy, tác phẩm đầu tay thực sự của ông là một cuốn tiểu thuyết chứ không phải truyện ngắn?

Vâng, một tiểu thuyết. Câu chuyện nảy ra trong tôi vào một buổi chờ qua lộ Cái Sắn, một con lộ đồn bót giặc đóng giăng giăng. Tôi muốn nói kỹ về buổi chiều "lịch sử" này. Chúng tôi, một đoàn cán bộ hơn chục người, ngồi rải rác trong một mảnh vườn nhỏ, người ngồi dưới bụi chuối, người ngồi dưới gốc cây trâm bầu. Một buổi chiều yên ắng, không ai nói với ai, nếu có nói thì cũng thủ thỉ đủ nghe. Tôi bỗng nghe có tiếng huýt sáo bài Giọt mưa thu của Đặng Thế Phong. Cho đến bây giờ, đã hơn bốn mươi năm, tôi vẫn nhớ người huýt sáo ấy là anh Minh, cán bộ Sở Giáo dục Nam Bộ. Tôi mường tượng thấy được giọng huýt sáo của anh như một làn khói mờ mờ lan tỏa trước mắt tôi. Và từ trong làn khói âm nhạc ấy, hình ảnh của câu chuyện rõ dần trong tâm trí tôi. Có lẽ từ đó, mà sau này, trước khi ngồi vào bàn viết, bao giờ tôi cũng nghe nhạc. Đang viết mà mất hứng, tôi lại nghe nhạc. Âm nhạc như gọi chữ nghĩa về với ngòi bút của tôi.
Trời sụp tối, trước khi băng qua lộ giữa hai bót giặc, tôi đã dựng xong trong đầu một câu chuyện dài. Khi về đến Bộ Tư lệnh, tôi dự định kể lại cho các văn nghệ sĩ viết; và sẵn sàng nấu trà cho mấy ổng uống. Lúc đó tôi nghĩ, hễ là văn nghệ sĩ thì cái gì cũng viết được (cười)! Ngây ngô đến vậy! Cùng công tác ở phòng chính trị với tôi có nhà văn Sơn Nam, họa sĩ Hoàng Tuyển, nhà thơ Hoàng Tấn, nhà thơ Hoàng Phố, ca sĩ Quốc Hương… Nghe tôi kể, Hoàng Tấn và Hoàng Phố là hai nhà thơ nên không viết tiểu thuyết được. Còn Sơn Nam thì nói : "Vùng đó tao không biết. Tao thấy rặng cây của các làng Hòa Hảo từ xa thôi. Mày cũng có chữ nghĩa, viết đi!". Chẳng ai chịu viết, thế là tôi viết. Tôi nghĩ bằng mọi giá, tôi phải viết cho được quyển tiểu thuyết này. Viết xong chết cũng được.

– Nhưng ông đã không chết, cũng không thôi được. Nghề nào cũng có cái "ma lực" của nghiệp ấy. Riêng câu chuyện tình cờ buổi đầu ông đến với văn chương cũng có thể dựng nên cả một cuốn tiểu thuyết. Bây giờ, trở thành một trong những "đạo trưởng" làng văn rồi, có bao giờ ông nghĩ vả chăng đó cũng là số mệnh?

Theo tôi, đúng hơn là cơ duyên. Tôi là người không nghĩ mình viết được văn, không có năng khiếu, cũng không đam mê. Nhưng vì có câu chuyện mình tâm đắc, không ai chịu viết, nên buộc phải viết. Khi đã viết rồi thì như thấy mình trở thành một người khác. Nhiều lúc, tôi nghĩ, nếu không viết văn thì không biết làm nghề gì?

– Vâng, đó cũng chính là niềm hạnh phúc của người cầm bút, khi trải được nỗi lòng mình lên trang giấy. Lần đầu viết văn, mà lại viết cả một cuốn tiểu thuyết, ông có gặp khó khăn lắm không?

Quá say mê, tôi viết liên miên một hơi ba trăm trang. Ở rừng thiếu giấy, tôi viết bằng giấy nhựt trình. Viết bên ngọn đèn dầu bên bờ kinh rừng U Minh, năm 1952. Viết xong, tôi đọc cho họa sĩ Hoàng Tuyển nghe. Anh khen hay, khuyến khích tôi viết tiếp. Kỷ niệm thời thơ ấu với cha mẹ, người thân, và cảnh vật quê hương cứ theo dòng mực tràn ngập trên trang viết. Cái làng Mỹ Luông của tôi nằm bên bờ sông Tiền thuộc huyện Chợ Mới, tỉnh Long Xuyên, nay là An Giang. Nó vừa thơ mộng vừa dữ dội. Từ làng tôi nhìn qua sông thấy rõ nhà thờ Cù Lao Giêng, nhà thờ Thiên Chúa giáo đầu tiên của Việt Nam, trước cả nhà thờ Phát Diệm. Cù Lao Giêng cũng là đất văn vật, nơi sinh ra nhiều con người nổi tiếng sau này như Ung Văn Khiêm, Nguyễn Văn Hưởng, Nguyễn Ngọc Bạch, Hoàng Hiệp…

Quê hương văn học

Nguyễn Quang Sáng và hai con trai

 – Xin ông nói rõ một chút về gia đình của mình

Cha tôi làm chủ lò thợ bạc, có trong nhà hai chiếc xe hơi. Bà con hay gọi cha tôi là cậu Hai. Khi về hoạt động cách mạng ở quê tôi, nhà cách mạng Châu Văn Liêm kết bạn thân với cha tôi. Mỗi lần đi Sài Gòn, Châu Văn Liêm hay ra nhà tôi ngủ để sáng đón xe. Làng tôi là mối đường cho cả một vùng của huyện Chợ Mới. Những làng xung quanh, ai muốn đi Sài Gòn cũng phải đến chợ làng tôi để đón tàu. Ngày nào tôi cũng nghe tiếng còi tàu, tiếng kèn xe hơi và tiếng vó ngựa gõ trên mặt đường. Muốn đi Sài Gòn phải qua bắc Mỹ Thuận, cách Sài Gòn gần hai trăm cây số, nhưng có thể nói Sài Gòn có cái gì thì làng tôi có cái nấy. Không có một đoàn hát nổi tiếng nào không về chợ làng tôi. Làng có trường gà, đôi ba năm lại có hội chợ. Có cả sân banh cho đội bóng chân giày. Nhà cách mạng Châu Văn Liêm là người xây dựng Chi bộ Cộng sản đầu tiên tại làng Long Điền, giáp ranh với làng tôi. Để hoạt động cách mạng, nhà cách mạng lão thành Châu Văn Liêm đã tổ chức một đội bóng đá gọi là đội Mỹ Long, đội bóng của hai làng Long Điền và Mỹ Luông nhập lại, cha tôi là thủ quân.

Tôi kể về cái làng của làng tôi hơi nhiều vì đó là nơi chôn nhau cắt rún, vừa là quê hương văn học của tôi. Hầu như tất cả các nhân vật của tôi, tôi đều đưa họ về sống ở làng, cho "họ" tắm sông Cửu Long, cho "họ" đi trên con đường giữa vườn xoài, cho "họ" ngồi xuồng mùa nước lũ, cho "họ" hít thở cái không khí của làng… rồi sau đó "họ" mới bước vào trang giấy thành nhân vật của tôi. Người nào cũng mang ít nhiều màu sắc của một làng bên bờ sông Tiền.

Phan Hoàng – Theo Vietimes

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *