…Người viết văn phải “tâm tuyệt, trí tuyệt”, quyết tử viết mới hay. Miền Nam trước có Lại Văn Long với Kẻ sát nhân lương thiện hay Đỗ Phước Tiến với Đảo của dân ngụ cư. Hai “thằng đó” viết ghê lắm. Nhưng tiếc là không theo nghiệp văn nữa. Họ có tính chất quyết liệt cao. Còn những nhà văn trẻ hiện nay hời hợt. Tôi không rõ, nhưng có thể thời bây giờ khác…
Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp
PV : Có một xu hướng như thế này : Hoạ sĩ và nhà văn chơi với nhau thường tụ tập lại thành từng cụm, từng nhóm. Họa sĩ thì lại muốn đá sang viết lách một tẹo, nhà văn lại muốn đá sang mảng hội họa một tẹo
– Ừ thì nó cũng là cái liên tài với nhau. Hơn nữa ai sống được một mình. Sống một mình chán lắm. Nguyễn Quang Thiều cũng hay đến chỗ Cương. Đám Nguyễn Việt Hà, Trần Đăng Khoa cũng hay qua đây.
PV : Anh nói anh chơi với Cương vì Cương hay hỗ trợ những hoạ sĩ trẻ. Về phía anh, một nhà văn bậc đàn anh, anh có giúp cho những nhà văn trẻ điều gì không?Vì chính anh ngày xưa cũng cần đến những “đảm bảo vàng” của Hoàng Ngọc Hiến để nổi danh?
– Tôi có viết mấy bài giới thiệu. Như trước đây tôi có viết cho Vi Thuỳ Linh, Phan Huyền Thư. Hay một số đám trong miền Nam thi thoảng ra ngoài này cũng gặp tôi như nhóm “Mở miệng” của Lý Đợi. Và nhiều người “ba lăng nhăng” khác. Những người viết trẻ hay tìm đến tôi.
PV : Khi tìm đến anh, không phải ai cũng tài năng. Vì nghệ thuật nó mơ hồ, nên nó có nhiều thứ lộm nhộm lắm. Những người tìm đến anh thuộc dạng người nào?
– Đa số họ đều còn nghèo. Nhiều khi tôi cũng phải cho họ một vài trăm. Một miếng khi đói bằng một gói khi no.
PV : Ý tôi muốn hỏi là những giúp đỡ về mặt nghệ thuật. Anh đọc văn họ và đưa ra những lời khuyên vàng của người đi trước. Đó là cách giúp có tâm nhất?
– Những người lạc đường thì tôi lờ đi. Nhưng những người thực tài, có ý chí thì tôi tìm cách giúp.
PV : Tôi đang hỏi về phía những nhà văn trẻ như Đỗ Hoàng Diệu hồi chưa có Bóng đè. Tôi thấy ông có vẽ cô ta lên đĩa sứ. Chắc hai người cũng thân với nhau?
– Cô ấy thì chẳng cần phải học tôi về văn chương. Nhưng khi đưa tôi xem trước truyện, có lẽ cô ấy muốn một lời chia sẻ, động viên. Ai cũng thích khen. Như Nguyễn Việt Hà viết truyện mới cũng đem cho tôi đọc.
PV : Khen nhiều thì “giả” quá.
– Dĩ nhiên mình cũng có những cái chê của mình.
PV : Nếu một ngày nào đó, tôi nảy hứng muốn viết văn và nhờ anh góp giúp đỡ có được không?
– Được thôi. Chẳng sao cả. Như Quỳnh Trang (tác giả cuốn 1981) cũng đem cho tôi xem. Nhưng nhìn chung, tôi không góp ý nhiều.
PV : Những người viết trẻ, cá nhân anh thấy ai có khả năng tiếp nối anh trong lĩnh vực truyện ngắn?
– Người viết văn phải “tâm tuyệt, trí tuyệt”, quyết tử viết mới hay. Miền Nam trước có Lại Văn Long với Kẻ sát nhân lương thiện hay Đỗ Phước Tiến với Đảo của dân ngụ cư. Hai “thằng đó” viết ghê lắm. Nhưng tiếc là không theo nghiệp văn nữa. Họ có tính chất quyết liệt cao. Còn những nhà văn trẻ hiện nay nói chung còn hời hợt. Tôi không rõ, nhưng có thể thời bây giờ khác.
PV : Thế Nguyễn Ngọc Thuần, một hoạ sĩ “đá ngang” sang mảng văn học khá thành công, thì sao?
– Đó cũng là tay đáng kể. Mặt lúc nào cũng đăm đăm. Anh ta có giọng điệu riêng, tuy anh ta theo kiểu của Saint Exupéry trong “Hoàng tử bé”.
PV : Nghe nói giải thưởng Huân chương Văn học Nghệ thuật Pháp thực ra đã trao cho anh cách đây 2 năm, nhưng anh từ chối. Vậy sao giờ này lại nhận?
– Cái tình thế của tôi lúc ấy là chưa ổn lắm. Thằng con tôi – Khoa – vẫn khiến tôi rối lòng. Chủ yếu là chuyện gia đình thôi. Lúc ấy tôi thiết quái gì đến giải thưởng? Con mình là quan trọng nhất!
PV : Tại sao họ lại chọn anh, chứ không phải Bảo Ninh, Chu Lai hay một tác giả nào khác?
– Tôi có 14 cuốn được dịch bên Pháp cơ mà.
PV : Ban đầu, họ tìm đến anh hay anh nhanh chân hơn các nhà văn khác tiếp thị sớm tác phẩm của mình đến họ?
– Họ đến tìm tôi từ năm 1990. Bà chủ Marion Hennebert tìm đến tận nhà. Sau đó, họ tổ chức dịch. Mãi đến năm 2000, khi tôi sang Pháp, mới biết bên đó họ đã in cho tôi bao nhiêu sách. Trong 10 năm, tôi không liên hệ với bên ngoài nên tôi không biết. Có món tiền tướng thế, tôi mới sửa sang, tổ chức nhà cửa tốt như bây giờ.
PV : Chắc là anh cũng có một sự "ghê gớm" nào đó, nên họ mới chỉ "ưu tiên" anh, chứ không phải những nhà văn khác?
– Không. Không phải thế. Tôi không ghê gớm. Họ có một sự trân trọng đặc biệt. Tôi sang bên Pháp được đón tiếp long trọng lắm. Tôi không dám nói người khác ra sao, nhưng có lẽ chưa có người nào được quý trọng như tôi. Có thể vì tôi cũng giỏi giả vờ (cười), nhưng cũng có thể tác phẩm của tôi khiến cho người ta xúc động thực sự, thích thực sự.
Tôi đi sang bên ấy, những tờ báo lớn như Le Monde, Libération, Le Figaro đều đích thân ông chủ Tòa soạn tiếp tôi, chứ không phải phóng viên bình thường. Ở Pháp, Anh có thể tổ chức một triển lãm hay ra mắt một quyển sách dễ lắm. Nhưng đến buổi chiều là người ta quên anh ngay. Họ rất biết cách lăng-xê. Thế thì tôi mới có độc giả và có tên tuổi được. Sau đó, họ cứ tái bản. Thậm chí năm nào tôi cũng có sách bên Pháp, nên tôi có lượng độc giả riêng. Chứ như Tô Hoài, Chu Lai in chỉ có một cuốn sách.
PV : Có thể vì người Pháp tò mò về một Việt Nam sau Đổi mới khác với giai đoạn trước ra sao. Và truyện của anh, như những bức tranh phóng sự sống động, đã đáp ứng, thoả mãn được nhu cầu ấy, nên dễ được đón nhận. Chứ không phải vì tác phẩm của anh thực sự hay hơn tác phẩm của những nhà văn khác?
– Đa số những người khác viết về chiến tranh. Nhưng tôi là nhà văn duy nhất viết về những điều bình thường. Viết về những điều bình thường rất khó. Thí dụ như viết về café Hàng Hành thì có gì mà viết? Những truyện của tôi đều viết về những sinh hoạt bình thường. Đa số toàn là chuyện lăng nhăng. Thế nhưng chúng lại bật ra được con người bình thường, tìm ra nỗi đau hay hạnh phúc bình dị trong cuộc sống. Điều ấy rất khó.
Mọi người cứ tưởng nhầm tôi là nhà văn chính trị, nhưng không phải. Tôi là nhà văn của đời sống phong tục. Chính vì thế nên dịch truyện tôi rất khó. Những truyện ông Chu Lai, ông Bảo Ninh thì dễ dịch. Và lối truyện của tôi là truyện người ta lúc nào cũng có thể đọc được. Hai mươi năm trước đã đọc, ngày nay vẫn đọc và sau này cũng sẽ đọc. Tôi không biết nói thế nào, nhưng nó như là cái ghế này (chỉ vào cái ghế gỗ cổ trong nhà Lê Thiết Cương) : nó có vẻ đẹp riêng của nó. Nó có cái gì đó cổ điển, nhưng không bị lỗi thời. Những đồ bằng sắt, tân kỳ hơn, nhưng họ không thể thích lâu được. Những tác phẩm của tôi ra được 14 đầu sách vì tôi có lượng độc giả tương đối bên ấy rồi.
PV : Anh có những thông tin về độc giả bên Pháp của mình không?
– Người ta in sách bên Pháp, chủ yếu là bán cho người Pháp. Chứ người Việt có bao nhiêu người đọc sách đâu. Ngay cả cộng đồng người V
iệt đông nhất ở bên Mỹ cũng thế. Ví như đám đọc được tiếng Việt đều là đám trí thức có tuổi, còn đám trẻ hơn thì phải đọc bằng tiếng Anh, tiếng Pháp. Tiếng Việt còn ngọng nghịu, sao đọc truyện của tôi được.
Người Pháp đọc truyện tôi có lẽ muốn biết về cuộc sống người Việt vui, buồn ra làm sao. Còn nhiều độc giả bên Mỹ nói với tôi : khi đến Việt Nam mới nhận ra điều ấy, từ trong sách của ông hơn là từ những trang sách du lịch giới thiệu về Việt Nam hay đọc của những nhà văn khác viết về Việt Nam.
Tôi không viết về chính trị, hay a dua này nọ, mà tôi viết về đời sống. Niềm vui, nỗi buồn, cái chết, yêu thương, những chuyện nhố nhăng. Đời sống bản chất là những chuyện ba lăng nhăng. Theo tôi, đã cầm bút, là nhà văn thì phải có thái độ nhất định với từng chủ đề. Như tôi chẳng bao giờ viết về chủ đề chiến tranh cả.
PV : Đấy là quan điểm của riêng anh thôi. Tôi nghĩ, đề tài không quan trọng bằng cách họ tiếp cận.
– Điều này khiến nhiều người hiểu nhầm. Khi sang đến Thuỵ Điển, tôi phải đính chính với nhiều người, vì họ chỉ hỏi và đổ xô về đề tài chiến tranh. Tôi cũng nghĩ ngay cả bây giờ, nhiều người cũng lợi dụng đề tài chiến tranh để kiếm chác, để mà gì gì đấy chứ.
PV : Anh nhìn giới viết văn trẻ bây giờ, anh có thất vọng nhiều không? Như anh từng trả lời phỏng vấn là họ quá hời hợt, quá nông cạn?
– Tôi không thấy thất vọng. Tôi chỉ tiếc. Đáng lẽ tuổi trẻ với đời sống văn hoá, vật chất cao thì trí tưởng tượng phải phong phú hơn. Nhưng họ viết thực dụng quá, trần trụi quá. Trí tưởng tượng là dấu hiệu của tài năng. Nó là cái sức mạnh của tuổi trẻ. Nhưng tuổi trẻ bây giờ, có lẽ bị những sức ép khác, họ trình bày hiện thực buồn quá. Tôi lấy làm tiếc cho họ. Chính ra tôi là một tay rất mơ mộng, những truyện của tôi toàn truyện bịa đặt. Có câu thế này, tôi không nhớ của ai : Nhà văn viết những truyện dối trá để trình bày sự thật. Cho nên, sức mạnh văn học là trí tưởng tượng. Không phải tự dưng J.K.Rowling viết "Harry Portter" và Dan Brown viết “Mật mã Davinci”, “Pháo đài số” cho thấy sức tưởng tượng phi thường như thế nào.
PV : Trên thế giới, hai truyện đó dù bán chạy vùn vụt nhưng vẫn khiến người ta nghi ngờ về tính nghệ thuật. Tính chất đọc thông và bán chạy chưa hẳn đã là hay. Những truyện đó không được xét vào dòng tiểu thuyết.
– Nhưng thời đại này cũng khác rồi. Dĩ nhiên văn học nghệ thuật phong phú, có nhiều kiểu lắm. Tôi vẫn trung thành với một quan niệm của tôi : Nghệ thuật phải bán được. Chứ nghệ thuật là danh hão thì tôi không thích. Tôi vẫn hay nói với các nhà văn trẻ : Nghệ thuật là phải bán được.
PV : Vậy là, một quyển sách đoạt giải Nobel, theo ý anh, không được đánh giá cao bằng những quyển sách thị trường “siêu chạy”của Jeffrey Archer, Sydney Sheldon?
– Không. Cái bán được không có nghĩa là bán được nhiều nhất. Truyện của tôi không phải là bán được nhiều nhất. Hay tác phẩm của những người đoạt giải thưởng Nobel cũng thế. Nhưng họ sống được bằng nghề của họ.
PV : Vậy là, phải sửa lại : Nghệ thuật, trước hết là phải sống được.
– (Cười) Sống được cũng có nhiều kiểu. Nhìn chung, truyền thống của phương Đông, như tôi viết trong cuốn tiểu luận về văn học, rằng văn học phương Đông đi vào lối sống “thanh đạm, tri túc”. Không nên nghèo hèn quá, mà cũng không nên xa xỉ quá.
PV : Vài năm gần đây, chúng ta thấy nhan nhản những tên nhà văn nữ mới như Trần Thu Trang, Quỳnh Trang, Từ Nữ Triệu Vương, Hà Kin… mà những bóng dáng nam nhi như Dương Bình Nguyên, Nguyễn Đình Tú lại khá mờ nhạt.
– Lý giải điều này rất khó. Trong đời sống tôi không rõ, nhưng trong văn học, người phụ nữ về tâm lý trung thực hơn đàn ông. Khi người ta còn trẻ, bản lĩnh chính trị chưa cao, quan điểm thiện ác, đúng sai rạch ròi, họ sẽ nghiêng theo một chiều, và đòi hỏi cái gì cũng rạch ròi. Thường những cây bút trẻ mới có kiểu bút ấy.
PV : Như anh nói, đàn ông giỏi nói dối hơn. Nghĩa là trong văn chương họ cũng không thật lòng?
– Chính trị là của đàn ông. Truyền thống văn học của ta và các nước phương Đông nói chung đều gắn với chính trị. Ai thành danh cũng đều gắn với bản lĩnh chính trị. Những nhà văn lớn chẳng có ai bản lĩnh chính trị tầm thường.
PV : Vậy có thể suy ngược rằng, bản lĩnh chính trị của Nguyễn Huy Thiệp cũng lớn?
– Không, tôi không biết. Nhưng tôi đi qua những khó khăn, hoạn nạn để thành công thì chắc tôi cũng có một bản lĩnh chính trị nào đó. Vì tôi cũng luôn bị lôi kéo, bị cám dỗ, bị thế nọ thế kia. Hơn nữa, tôi cũng không phải là người có tham vọng gì ngoài tham vọng trở thành một nhà văn.
(Còn nữa)
Xuân Anh – Vietimes