Không hiểu nhờ đâu mà dù đã chạm bước vào hoàng hôn, người phụ nữ ấy vẫn giữ được phong thái thanh tao, sự chân thật có phần thơ ngây trong ánh nhìn cũng như tiếng nói nhẹ như sương khói Huế và cả cái tính thoắt buồn, thoắt vui như thời tiết Huế? Người phụ nữ ấy là nhà thơ Trần Thị Linh Chi.

Chị là con gái của nhà văn Trần Thanh Mại, cháu cố của quan đại thần Trần Bình (Thượng thư lần lượt cả 5 Bộ Lại, Binh, Hình, Công, Học, triều Tự Đức); cháu nội Học sĩ Trần Nhã, Tri phủ Quế Sơn; cháu Thượng thư Bộ Học Trần Thanh Đạt và nhà văn Trần Thanh Địch. Một buổi chiều trong quán cà phê cóc trên đường Hòa Bình (TP Cần Thơ), những lời chị nói làm tôi nao lòng: “Chị thấy mình đã đứng trong buổi chiều mà bên kia sông mặt trời chỉ còn là đốm lửa. Biết là muộn, chị vẫn đi và mong sao mặt trời đừng vội tắt!”. Đó là chị nói về tác phẩm thứ năm của chị – tập thơ “Chiều muộn” (NXB Văn Nghệ -2007).

“Đại tiểu thư” nhọc nhằn

Nhà thơ Trần Thị Linh Chi thời thiếu nữ

Ngày xưa, ở ngoại ô thành Huế, một cô bé sống cùng mẹ và hai em trong căn nhà giàu… hoa lá: “Dưới chân đồi Quảng Tế/ Có khu vườn rợp cây/ Với ngôi nhà rất cổ/ Giữa khung trời nhiều mây…/ Có cô bé ngây thơ/ Lớn lên và hay mơ/ Tưởng đời như cổ tích/ Tưởng mình như bướm hoa”(“Hoa oanh trảo”). Năm 1945 cha cô bé dắt người con trai trưởng thoát ly ra Bắc. Mẹ cô bé – một nghệ sĩ cung đình – phải nuôi ba con trong túng quẫn trăm bề. Linh Chi trở thành người chị cả tảo tần từ ngày thơ bé với gánh hàng để phụ mẹ nuôi em. Hàng của cô bé đặt trong rổ tre tí xíu gồm tất cả những gì mót được trong vườn: vài trái ổi, trái thơm…

Ngày giáp Tết, vườn nhà không còn gì mót được thì Linh Chi hái hoa oanh trảo đặt trong chiếc rổ tre lót lá chuối non mềm. Những bông hoa thơm ngát không ai mua héo dần dù cô bé tưới cho nó rất nhiều nước mắt tủi thân trong buổi chiều cuối năm lạnh buốt của xứ Huế. Linh Chi còn bán hạt sen. Chỉ ai là người Huế hoặc từng đến Huế mùa sen mới biết hạt sen Huế đẹp biết chừng nào – những hạt sen ửng màu tím phấn, mịn, mát, thơm như da con gái đồng trinh. Tuổi thơ Linh Chi làm tôi nhớ tuổi thơ tôi: Những lá trầu vàng rụng, những nhánh mai gầy cuối đông mưa dầm đất Quảng, những con đường gập ghềnh áo cơm của tuổi thơ nghèo…

Nghèo nhưng ba chị em Chi đều thi đậu vào các trường nổi tiếng. Ở Trường Đồng Khánh có nhiều Tôn Nữ nhưng không phải cứ dòng dõi hoàng tộc, đại thần là giàu có. Cũng như Linh Chi, Tôn Nữ Hỷ Khương, Tôn Nữ Đông Sương đều nghèo. Nhiều buổi trưa ở lại trường, Linh Chi và Đông Sương cùng nhau thưởng thức món ăn “cung đình” mì – xôi: bánh mì của đại tiểu thư Linh Chi kẹp “nhưn” xôi của quận chúa Đông Sương.

19 tuổi lấy chồng, 19 năm chồng nuôi… Nhưng rồi thời cuộc đổi thay, chị phải lao vào gió bụi mưu sinh để nuôi 7 con thơ. Linh Chi xưa đến giờ vẫn gầy guộc. Mỗi ngày chị vượt con đường 45km từ Cần Thơ đến bến đò Thốt Nốt với số dầu nhớt nặng gấp đôi trọng lượng cơ thể để kiếm vừa đủ tiền gạo cho tám mẹ con, rồi bán thuốc lá từ loại “bốc lăn se ông già le lưỡi” đến thuốc điếu lẻ, thuốc bỏ sỉ, sau đó lại chuyển sang làm các món ăn Huế… Những nỗ lực của người phụ nữ nhỏ bé này đã được đền đáp: Tất cả các con đều đỗ đạt, trong đó 3 con trai là kỹ sư, tiến sĩ làm việc tại Úc; 1 con trai là doanh nghiệp thành đạt; 3 con gái là giáo viên Toán cấp III.

Tiếp nối truyền thống gia tộc với “vết mực trên đầu ngón tay”

Nhà thơ Nam Trân từng viết về nhà văn Trần Thanh Mại: “Lúc ra đời anh đã mang theo vết mực trên đầu ngón tay”. Trần Thị Linh Chi thừa hưởng tình yêu văn chương của cha, tính cách nghệ sĩ của mẹ, học làm thơ từ tấm bé, từng được chọn tham gia các vở kịch, kịch thơ như “Bến nước Ngũ Bồ”, “Mùa gặt ác”, “Thái tử Tất Đạt Đa”…

Khi áo cơm còn quằn vai bỗng chị cầm cây bút. Chị thành tâm thấy mình không bằng anh cả (GS.TS Trần Tuấn Lộ), hay em trai út (Trần Tuấn Mẫn – P.TBT báo Văn hóa Phật giáo) nhưng tôi thấy chính chị mới thực là người có “vết mực trên đầu ngón tay” giống như cha. Trần Thị Linh Chi có nhiều câu thơ đọc rồi ám ảnh không quên được: “Một đàn chim én xuyên mây/ Thuyền ta xuyên nước hái đầy hoa sen/ Đến khi trời đã lên đèn/ Vành trăng rụng xuống, hương len tóc thề” (“Dạo chơi hồ sen”).

Trời “đã lên đèn” bằng tỉ tỉ ngôi sao mà cô gái với con thuyền chở đầy hoa sen vẫn chưa về. Chỉ có Linh Chi mới mơ vành trăng thành chiếc lược bạc cài trên mái tóc ngát hương sen, tôi chỉ còn biết ghen tị: “Tình làm sao, con gái Huế”! Cái tình tứ dào dạt mà sâu thẳm ấy gặp rất nhiều trong thơ Linh Chi: “Muốn hái chùm hoa gửi tặng anh / E sương mỏng quá lại không đành / E trăng sẽ rụng và rơi hết / E cả tơ lòng vốn mỏng manh” (“Vườn trăng”). Tôi thương “tình Huế” nhẹ như sương giăng trên núi Ngự, cuồn cuộn như nước sông Hương mùa lũ: “Vạn Xuân chiều mưa thưa / Bến cũ một trời xưa / Qua sông con đò nhỏ / Chỉ thiếu một người đưa” (“Vạn Xuân bến cũ”).

Thơ của chị có khi reo vui thơ trẻ nhưng có khi lại lắng một nỗi niềm: “Tôi cảm thấy một cái gì rất nhỏ/ Chút heo may hay hạt bụi lang thang/ Bay, bay đi qua từ cõi hồng hoang/ Và ghé lại nơi đây, căn phòng vắng…” (“Giấc chiều”). “Cái gì rất nhỏ” đó là gì? Phải chăng ta có thể cho đi một đời hy sinh, tận tụy nhưng nỗi riêng như mảnh cắt của một giọt nước mắt đọng lại trong tim. Mảnh – cắt – nước – mắt ấy khi trở mình thì tim đau nhói!

Nhiều năm qua Linh Chi sống ở Cần Thơ. Đây là nơi các con chị sinh ra, lớn lên. Trong trái tim dù nặng tình với Huế vẫn tiềm ẩn một tình yêu và lòng biết ơn sâu nặng với mảnh đất tràn ngập nắng vàng phương Nam đã cưu mang gia đình chị . Như một câu hát của nhạc sĩ Trần Long Ẩn “Dù muộn cũng phải nói với nhau”, tập thơ “Chi

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *