Chỉ nhìn chị là thấy sự vất vả, những trăn trở ở Đỗ Thị Tấc

Có lúc, chị vỗ vào thân điếu mà rằng : "Xưa, quê tôi bán thuốc lào. Già, trẻ, trai, gái hút thuốc lào tất. Tôi cũng thế, hút lâu nghiền nên khó bỏ. Sắm cái điếu cày to, hút thuốc lào mới sướng". Trong lời chị Tấc lúc này có cái "phê" của việc hút thuốc lào, có niềm tự hào về truyền thống hút thuốc lào của quê hương.

Khi hỏi chị về bệnh tật, chị giơ bàn tay 5 ngón ra mô tả : "Tôi đi chụp X-quang rồi, phổi bị đen có một góc thôi. Có thời gian mà hút được thuốc lào còn may, lúc bận rộn phải hút thuốc lá, tai hại hơn gấp bội". Hút thuốc lào, sành thuốc lào không thua kém đàn ông. Hình như với chị, vịn vào hơi thuốc lào để sống ung dung tự tại, để ứng xử với đời, để làm lên một chị Tấc chẳng giống chân dung của một người đàn bà nào cả.

Vốn từ một giáo viên dạy thể dục, chị đến công việc làm báo (Đài Truyền hình tỉnh Lai Châu), rồi cũng đi học báo chí, rồi lại làm thơ, viết văn và nghiên cứu văn hoá dân tộc. Văn học, nghệ thuật, văn hoá các dân tộc ít người cứ vận vào cuộc đời chị như duyên như nghiệp. Chị làm những nghiên cứu và thống kê về ba dân tộc chính là Thái, Hà Nhì, Lự.

Bây giờ, chị làm đến chức Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Lai Châu, có xe ô-tô đưa đón khi đi làm, chị vẫn không thôi khắc khoải : "Vị trí Chủ tịch ngốn của chị quá nhiều thời gian, không còn thời gian đi nữa. Chị muốn đi xuống bản, muốn gặp những ông già ở bản mà trò chuyện, họ là một "kho văn hoá" mà đang lay lắt sớm mai. Họ mà đi, khi mình chưa kịp đến thì sẽ có rất nhiều nét văn hoá bị chôn vùi, hao phí".

Thỉnh thoảng, hàng xóm hay thấy chị Tấc đón những người già ở bản về nhà, nuôi như mẹ như cha. Chị nấu cơm để họ ăn, sắc thuốc cho họ uống, nhờ họ dịch lại những bài ca dao dân tộc. Đêm đêm, ở thị xã Lai Châu, trong gian nhà nhỏ của chị Tấc, các cụ già được ngủ trong chăn ấm đệm êm hay mang đàn, sáo nhị ra thổi. Cái hứng ấy nhờ chị Tấc khơi lên, và cũng chỉ chị "tiếc", "thèm", ao ước giữ lại.

Tây Bắc là xứ sở quyến rũ và mê hoặc người đàn bà máu nghề này. Chị kể lại lịch sử về chuyến đi rừng ròng rã suốt 2,5 tháng trời vào ngã ba biên giới Việt – Trung – Lào. Chuyến đi làm chị hiểu văn hóa, thỏa tò mò, nhưng lại là chuyến đi mà chị bị vắt kiệt sức lực (bị rụng hết tóc do sốt rét rừng), bị kỉ luật của cơ quan vì đi quá số ngày trong công lệnh, nhưng không vì thế chị sợ đi, mà nghỉ lâu không đi, làm việc trong văn phòng là chị lại nhớ bản. Chị nói bằng cách nói của người đàn bà được mách bởi bản năng, kiểu nhớ nghề và ngứa nghề vậy.

Chị là người ủng hộ cho sự đa dạng văn hoá, cũng như ao ước được giữ những giá trị truyền thống. Từ tộc người đến con người nên sống như chính văn hoá của mình là thế. Chị là người kĩ tính khi nghiên cứu, kĩ đến từng thanh dấu của một câu ca dao : "Chỉ một dấu, một thanh trong một bài ca dao của người Thái thôi, mình ghi sai, chép sai, sẽ thật là tai hại… ".

Với đời : Chỉ có tình yêu người bản?

Chị Tấc nổi tiếng là người phụ nữ hay đi. Cứ mang theo vài lạng thịt, một bó rau là chị ở hẳn với người bản, ăn nhờ cơm, uống nhờ nước. Chị đi khắp các bản mường, Pắc Ma mùa mật ong, Khuổng Lào, Pín Nhừ, Phay Cát, Mường Ẳng, Bản Bông, Pa Khoang… Những nơi xa lắc lơ, nơi nào chị bảo mình cũng cảm thấy ấm áp tình người ở bản. Những chuyến đi thật dài vì nghề đã làm chị chịu một định dạng chua cay cuộc đời một phụ nữ : 45 tuổi (trong giấy khai sinh) – 49 tuổi (tuổi thực) mà chưa có chồng. Có một người con đẻ vắng cha và vài đứa con nuôi.

Hỏi chị về chuyện tình yêu, chị nghiêm khắc : "Chẳng có tình yêu gì cả, chỉ có chuyện tình người bản". Chị hay bảo : "Ở môi trường sống nào, người ta cũng cần yêu thương nhau". Chị đã được sống ở một tập thể có nhiều người yêu thương chị. Thế nhưng, một nơi quan trọng nhất, ấm áp nhất thì chị lại khuyết. Thế nên khi đọc những câu thơ chị viết, người ta lại thấy những yêu thương tự nhiên vỡ oà :

Nói rằng : "Người ta nhìn vào thắt lưng/ Trợn mắt/ Người ta nhìn hàng cúc bướm/ Lườm như muốn ăn thịt/ Người ta nhìn vào mắt/ Bỏ đi/ Không nói ra thì không chịu được/ Nói rằng thương/ Không phải/ Nói rằng nhớ/ Không đúng/ Nói rằng yêu/ Làm gì… / Nói ra rồi cũng không chịu được/ Người như trăng no muốn vỡ/ Ra suối cởi thắt lưng/ Bung hàng cúc bướm/ Vắt lên đầu/ Lội dòng nước sâu/ Trốn vào nước/ Trăng vỡ loăng ngoăng/ Buồn cả ngực/ Tức cả mắt/ Buồn cả ngực/ Tức cả mắt/ Thế này thì chết mất/ Chẳng biết mai/ Người ta có sang".

Chị bảo thơ chị lộc khà lộc khộc, tôi cũng thấy thế thật. Tôi đọc cái lộc khà lộc khộc ấy cả trăm lần mà không chán, bởi càng đọc càng ngấm cái lý trong mỗi câu thơ. Cái mà trong câu chuyện hằng ngày nói với nhau nó hơi gượng gạo. Đọc thơ chị, th
ấy tình yêu mang một mật mã riêng. Cái nhớ, cái quên, cái hẹn hò đời đời kiếp kiếp " …Ông vẫn đi khắp chợ, nhìn mặt từng người/ Luôn mồm lẩm bẩm/ Em hẹn ta goá bụa về già/ Nếu thành ma cũng về báo mộng/ Ta đã goá/ Người ta bảo rằng em cũng goá/ Mộng chẳng thấy/ Người không về Sàng ơi".

Tôi hỏi chị về những công trình nghiên cứu đã được in thành sách, chị chỉ cười. Đi nhiều, viết càng nhiều, nhưng nó vẫn chất trong buồng, ở một đống cao ngút… hay thỉnh thoảng có bạn bè lấy tên in hộ. Có nhiều người bảo chị là : "Tấc ngu dại", chị ậm ừ : "Ngu dại mới là Tấc, còn khôn ngoan đã là người khác rồi". Chị không tham danh, không tranh thủ, chị làm vì sợ văn hoá dân tộc sẽ hư hao, thiếu hụt. Chị bảo, chị sắp trốn việc… Chị sẽ đổ họp hành, giao ban, các công việc xã giao cho "Phó", để chị đi xuống bản. Ở đó, chị có tình yêu người bản.

Tôi cầm trên tay cuốn thơ "Những người mẹ núi" của chị, đọc mãi không chán. Những câu thơ "lộc khà lộc khộc", cái cách mà chị viết để lý giải tên mình cũng lạ lùng : "Cha mồ côi/ Mẹ mồ côi/ Lấy nhau mơ "Tấc đất cắm dùi"/ Ước mơ/ Vận vào tên tôi/ Đất làng chật chội/ Cha mẹ mang dùi lên cắm núi/ Mọc rễ/ Thành cây".

Ngồi với chúng tôi hơn một tiếng đồng hồ, thỉnh thoảng chị cười rất to, thỉnh thoảng lại nói nhẹ như hơi thở. Những câu chuyện của chị kể lúc vui vẻ, hóm hỉnh, lúc lại se sắt lòng người. Hút tổng cộng 18 điếu thuốc lào. Chị thở ra một câu nói, nhẹ vương như khói thuốc : "Không chu toàn được mọi thứ", vừa đúng vừa xa xót. Có một khắc, chị Tấc cũng chỉ vào mặt tôi mà rằng : "Mày là con gái, mày cũng làm báo, nếu hết mình với nó thì cay cực lắm… ". Bây giờ nhớ lại, mỗi câu chị nói như xắt vào tim tôi. Mỗi khi một mình nhớ lại, một mình nhớ chị, trong bất giác, tôi hay gọi : "Nghề ơi? Đời hỡi?"

Tĩnh Phan – CAND

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *