Cho đến nay, ngoài những truyện đăng với các tác giả khác trong những tuyển tập chung, Nguyễn Ngọc Tư đã có được các tập truyện ngắn riêng : Tập truyện Ngọn đèn không tắt (NXB Trẻ 2000), Ông ngoại (NXB Trẻ 2001), Biển trời mênh mông (NXB Kim Đồng 2003), Giao thừa (NXB Trẻ 2003), Tập truyện và ký Nước chảy mây trôi (NXB Văn nghệ TP HCM 2004), Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư (NXB Văn hóa Sài Gòn 2005). Gần đây tác phẩm Cánh đồng bất tận (NXB Trẻ 2005) của chị được phát hành gây nên một tiếng vang mới, khen chê đều có, nhưng dù gì thì hiện nay tên tuổi của chị không những đã được biết đến ở cả nước, mà hình như ở nước ngoài nhiều bạn đọc cũng quan tâm. Trong các tập sách này, có nhiều truyện được chọn in ở nhiều tập, có lẽ vì nó thu hút người đọc, như : Dòng nhớ, Nhớ sông, Chuyện của Điệp, Hiu hiu gió bấc, Huệ lấy chồng, Cái nhìn khắc khoải, Nhà cổ, Ngổn ngang…
Đọc truyện của chị, người đọc sẽ cảm nhận được chất Nam Bộ thể hiện khái quát ở nhiều phương diện của tác phẩm. Bối cảnh trong các truyện ngắn phần lớn là vùng đất U Minh. Đó là mảnh đất cuối trời quê hương, mà nhiều người chỉ nghe nói tới, chớ cũng không có lần được đặt chân đến, đừng nói chi đến việc đi hết vùng đất Mũi. Trong tác phẩm của chị có một không gian Nam Bộ với những loại cây, tên gọi nghe quen, dân dã : "mắm, đước, sú, vẹt, bần, tra, tràm, choại, quao, ô rô, dừa nước…", với những vàm, kinh, rạch, xẻo, tắt chằng chịt, mà tên gọi cũng gợi trí tò mò, tìm hiểu ở người đọc : "vàm Cỏ Xước, vàm Mắm, kinh Cỏ Chác, kinh Mười Hai, kinh Thợ Rèn, rạch Mũi, rạch Ráng, rạch Ruộng, xẻo Mê, xẻo Rô, lung Lớn, gò Cây Quao…", hay những tên ấp, tên làng, tên chợ nhiều chất Nam Bộ : "xóm Xẻo, xóm Rạch, xóm Kinh Cụt, xóm Miễu, chợ Ba Bảy Chín, Cái Nước, Trảng Cò, Đất Cháy, Mút Cà Tha…". Nhân vật trong tác phẩm của chị là những con người Nam Bộ với những cái tên cũng hết sức bình dị, chân chất, đặt tên theo thứ, và cách xưng gọi thứ kết hợp với tên : Hai, Ba, Tư, Chín, Út…; Tư Nhớ, Năm Nhỏ, Sáu Đèo… mang những tâm tư, nguyện vọng cũng hết sức nhỏ bé, đời thường. Đó là những con người sinh sống bằng những ngành nghề cũng gắn liền với quê hương sông nước Nam Bộ, như : "nghề sông nước, nghề nuôi vịt chạy đồng, nghề theo gánh hát…", ngoài những ngành nghề truyền thống làm ruộng, làm rẫy, đan lát… Đặc biệt, vùng đất và con người Nam Bộ trong các sáng tác của chị được dựng lại bằng chính chất liệu của nó là ngôn từ và văn phong nhiều chất Nam Bộ của chị.
Truyện của chị đa phần dừng lại ở những tình cảnh gia đình nghèo, đề cập đến số phận buồn của những con người nhỏ bé, những nông dân chân chất với những ước mơ và cuộc sống hết sức bình dị đời thường rất đáng cảm thông, trân trọng, nhưng đôi khi cuộc đời nghiệt ngã cũng không cho họ được như ý, được toại nguyện, như: "Chuyện của Điệp", "Nhớ sông", "Đau gì như thể"…
Truyện Chuyện của Điệp nói về một cô bé lớn lên với ngoại, nhưng có tâm hồn đa cảm, bao dung : "Má à, sáng này má kêu con Giàu theo con ra đoàn, mấy bộ đồ của bé Bơ còn nguyên một giỏ y thinh, con gởi nó đem về cho má, mai mốt má sanh cho em bé mặc, nghen má".
Hay truyện Nhớ sông, nói về cảnh bất hạnh của gia đình ông Chín, vợ mất sớm vì một tai nạn bất ngờ trên sông nước, để ông phải lâm vào cảnh "gà trống nuôi con". Dù nghèo, nhưng ba cha con vẫn gắn bó với nhau bằng một tình thương yêu hết sức thiêng liêng, cảm động. Đọc truyện này nhiều người phải rơi nước mắt vì cảnh gia đình ông Chín : "Gia đình ông Chín sống hẳn trên ghe. Cảnh của ông cũng buồn lắm. Nhà nghèo, ra riêng, gia đình chỉ cho hai công đất. Năm Giang ba tuổi, Giang lên sởi. Ông Chín bán đất cứu con. Số tiền con dư lại, ông mua chiếc ghe nhỏ đi bán hàng bông. Cả nhà dắt díu nhau linh đinh sông nước". Cảm động nhiều là đoạn nói về tình cảnh trong quá khứ, khi mỗi lần ghe ông ghé lại, đứa trẻ con ông lại lên bờ chạy như điên dại, và lúc ấy, nó như tìm lại được khoảng trời tuổi thơ đầy mơ ước, mà điều này khiến vợ chồng ông đau xót qua tâm sự : "Có lúc, vừa ghé lại bờ, chưa kịp buộc dây ghe vô gốc mắm, do quẩn chân lâu ngày, Giang đã chạy lên bờ, chạy cuống chạy cuồng như vui như điên trên đất, má Giang rớt nước mắt, "Con nó thiệt thòi…". Ông Chín an ủi, "vì miếng ăn mà, mình ơi".
Cuộc sống nghèo khổ tạo cho con người một nghị lực, lâu dần trở thành thói quen, mà thói quen dễ làm con người nhớ. Dù nỗi nhớ của những con người nghèo khổ này "lạ quá!", mấy ai "thông cảm" được : "Ghé Đập Sậy, Giang đòi ông Chín ở lại một đêm, cho Giang xuống ghe ngủ với con Thủy. Giang than nức nở, "Trời ơi, con nhớ ghe quá trời đất đi". Xuống ghe, Giang mò mẫm từng món hàng, từng miếng sạp." (Nhớ sông).
Đọc truyện
của chị, người đọc có băn khoăn : ở vùng đất đồng bằng này, còn bao nhiêu gia đình đang ở vào tình cảnh như gia đình ông Chín, gia đình của Điệp, gia đình của cha con Tư Nhớ?
Truyện của chị còn đề cao nhân phẩm của những con người lao động nghèo. Họ thiếu thốn tiền bạc, nhưng không nghèo tình nghĩa mà lại giàu nhân cách, trách nhiệm. Truyện Đau gì như thể… lại là một bi kịch của 3 thế hệ : ông, mẹ, cháu. Cả ba nương tựa vào nhau bằng niềm vui sống mong manh, nhưng cũng hết sức mãnh liệt, bền bỉ. Tư Nhớ bị hàm oan vì "sự loạn luân". Thiên hạ đồn đại dai dẳng, trong đó có người của chính quyền xã Xẻo Mê cũng cho rằng, con của Nga cũng chính là con của Tư Nhớ – cha của Nga, và ông đã bị nhốt mấy ngày ở Ủy ban vì chuyện này. Đoạn viết về tình cảnh này của cha con chú Tư hết sức xúc động : "Đứa trẻ ngày xưa bây giờ đã làm mẹ một đứa trẻ khác, cũng môi đỏ, mắt đen. Hôm ở trạm xá về, ở xóm người ta lại thăm nườm nượp, không kịp nhìn đứa trẻ, nắc nẻ khen liền: "Trời ơi thiệt là giống chú Tư quá he". Có người chưa đi quá cái miễu ông Tà đã cười cợt bàn với nhau, hỏng biết thằng nhỏ kêu ông Tư Nhớ là gì ha, là ngoại hay cha. Ông đang quạt mẻ than, nghe câu ấy thảng thốt nhìn tro bụi tơi bời, con gái nỉ non, ba ơi, kệ con, coi chừng người ta thấy, nói tới nói lui. Ông già nổi quạu đùng đùng, "Thiên hạ để tôi sống đàng hoàng như một con người chớ". Tiếng kêu nghe thấu đến trời, sao đồng loại con người không học cách hiểu nhau." (Đau gì như thể…)
Chuyện oan khuất của một đời người là nỗi đau âm ỉ, dữ dội của chính họ, nhưng người khác vô tâm thì sao có thể chia xẻ cho họ được. Ông đã nhiều lần dành dụm tiền, viết lại đơn để lên các cấp Ủy ban xin được minh oan, xã thì bảo ông lên huyện, "rồi huyện chỉ lên tỉnh, tỉnh hứa để từ từ coi lại", "Lâu lâu, ông tới để nhắc chừng, mỗi khi hay có sự thay đổi, luân chuyển lãnh đạo, ông đến nộp thêm bộ đơn nữa". Nhưng người ta xem chuyện đó đơn giản, khi nghe ông trình bày sự việc : "Ủa, đơn giản vậy thôi hả?" làm ông quá thất vọng. Khi "chính quyền sai" ông không khiếu kiện, chỉ xin hai chữ "minh oan", nhưng họ trả lời ông cũng hết sức "vô tâm, cửa quyền" : "Biết chú bị oan là tụi tui thả liền, chú còn đòi gì nữa?", hay : "Chuyện của chú thấy vậy mà căng lắm, hồi trước giờ chính quyền chưa xin lỗi trước dân lần nào, tôi đâu có dám phá lệ, hay chú lên huyện hỏi thử coi…". Ngày xưa nói, "chính quyền là công bộc của dân". Bây giờ nói, "cán bộ là đây tớ của dân", nhưng xem ra câu nói ấy chỉ dừng lại ở cửa miệng.
Truyện Cải ơi! cũng đề cập tới tình cảnh của ông già Năm Nhỏ phải chịu tiếng oan là "giết con" khi nhỏ Cải (con của vợ ông), làm mất đôi trâu, sợ đòn, bỏ trốn. Cuộc hành trình dài lặn lội đi tìm đứa con, với nhiều "phương kế" của ông, của một người "cha ghẻ" (bố dượng) để mong tìm được con Cải, có nhiều chi tiết hết sức tình người, rất xúc động. Những chi tiết này là cuộc sống sinh hoạt đời thường, bình dị, giàu chất Nam Bộ và cũng thấm đượm tình người : "Ông già Năm Nhỏ lặng đi, tự hỏi, bây giờ ông lên tivi, con Cải có nhận ra ông không. Câu trả lời là có, ông đã dắt con nhỏ đi hái xoài chín trong vườn hoang, đã chặt chuối làm bè dạy cho nó lội, thả trâu, chơi diều, ông đã cõng con nhỏ đi tắt mấy vạt đồng đến khám bệnh chỗ ông bác sĩ già, mỗi khi nó nhức đầu, sổ mũi. Cây kẹp nhỏ, mớ dây thun khoanh, mấy cục kẹo dừa vung vinh trong túi áo mỗi khi ông đi chợ về… Tất cả những thứ đó, ông nhớ mồn một thì nhỏ Cải chắc chưa quên. Ông già muốn lên tivi để nhắn đứa trẻ bỏ nhà rằng, về đi con ơi, đôi trâu có sá gì!".
Nhân vật trong truyện của chị phần lớn là những con người ít phản kháng trước những ngang trái, bất công, nhưng giỏi sự chịu đựng. Cụ thể như gia đình Tư Nhớ trong truyện Đau gì như thể…, hoặc một nhóm người nông dân nghèo ở Trảng Cò, trong truyện Lỡ mùa : Người nông dân khổ vì không có đất canh tác do những quy hoạch treo. Họ mất đất, nên luôn ao ước được cày bừa trên mảnh đất của chính mình, mỗi khi thấy mưa về, nhưng giờ đây cũng không được : "Trời vẫn trĩu đầy nước, tối âm u, ông Ba thấy núi mây đen thẫm dựng lên một mảng trời phía Trảng Cò, ông chắc lưỡi như xót xa lắm, điệu này dưới mình mưa lớn dữ, đất chắc chìm hết rồi, đồng chỉ chắc còn loi ngoi cỏ, muốn cày, bừa cũng khó lắm đây. Ông Ba già nghe ruột mình nôn lên, từng khúc, từng khúc, nghẹn ứ đến mức ông không lên tiếng được".
Trong những sáng tác của chị, có rất nhiều truyện chị đề cập tới tình yêu đôi lứa ở nông thôn, với những ước mơ, đơn giản, bình dị. Có những tình yêu đi đến kết cục nhưng phải qua bao nhiêu thăng trầm, sóng gió, như truy