Bản dịch quốc ngữ Truyện Kiều do học giả Đào Duy Anh biên soạn năm 1979 được truyền bá và thông dụng nhất hiện nay. Thế nhưng ít ai biết rằng, Nguyễn Khắc Bảo (một thầy lang đất Kinh Bắc) đã sửa đến 918 chữ ở 701 câu.
Nhớ lúc Lã Bất Vi ở xứ Trung Hoa viết xong tác phẩm Lã Thị Xuân Thu đã để một ngàn nén vàng ở cửa thành Hàm Dương và nói rằng : "Hữu năng tăng tổn nhất tử giả thiên kim", nghĩa là : Nếu ai thêm bới được một chữ trong tác phẩm ấy thì ông sẽ thưởng cho ngàn nén vàng, thì có lẽ, ông Bảo xứng đáng được trả bốn nghìn vàng.
Duyên nợ với kiệt tác Truyện Kiều
![]() |
Căn nhà nhỏ của ông ở phường Tiền An, thành phố Bắc Ninh chứa đầy đồ cổ, từ tiền, tượng đất nung cho đến những bát, chén, chai, lọ, trong đó có nhiều cổ vật có niên đại hàng nghìn năm. Thế nhưng, điều ông say mê nhất, "lao tâm khổ tứ" nhất lại là kiệt tác bất hủ – Truyện Kiều – của đại thi hào Nguyễn Du.
Nguyễn Khắc Bảo đến với Truyện Kiều một cách rất tình cờ. Phải chăng, đó là chữ "duyên" của thầy lang "chọi" với cụ Nguyễn Tiên Điền. Năm 1990, khi về nghỉ mất sức, ông Bảo quay về với nghề Đông y cổ truyền của gia đình.
Quyết tâm nghiền ngẫm lại vốn Hán – Nôm, ông đã đối chiếu bản Kiều Nôm trong số đồ gia bảo với bản Kiều quốc ngữ chỉ với một mục đích hết sức "chân phương" là nhận dạng mặt chữ Nôm để đọc sách thuốc.
Nếu việc đối chiếu so sánh đó cứ "chẵn" – "tròn" thì đã không có chuyện gì xảy ra. Nhưng một ngày, ông phát hiện ra chữ "thử" trong bản Nôm lại là chữ "tư" trong bản quốc ngữ (câu "Lạ gì bỉ sắc tư phong"). Vậy thì ai sai, ai đúng?
Sự tò mò đã thôi thúc ông tìm kiếm các bản Kiều khác để đối chiếu. Khởi đầu là Bắc Ninh, Bắc Giang rồi đến Hà Nội, Nghệ An, thậm chí cả Sài Gòn, Tiền Giang. Cứ nghe chỗ nào có bản Kiều cổ là ông tìm đến và "săn" cho bằng được. "Độ trăm lần đi may thì tìm được một cuốn" như lời ông tâm sự.
Ông lý giải niềm say mê chú giải và tìm đến ngọn nghành câu chữ trong truyện Kiều của mình thật giản dị : "Mọi điều đều có cái gốc của nó. Thứ nhất, tôi là giáo viên toán, ưa sự chính xác. Thứ hai, thầy thuốc Đông y cũng cần sự chính xác. Nghĩa là sách các cụ dạy thế nào thì phải làm đúng như thế mới có tác dụng, mới có thể chữa khỏi bệnh. Nên Truyện Kiều tôi cũng suy luận như thế. Cụ Nguyễn Du viết thế nào thì phải dịch đúng như thế mới thấy hết được tài năng của cụ".
Để có thể dịch sát với nguyên tác nhất, ông đã phải lần lượt đối chiếu từng câu, từng chữ trong tất các bản Kiều mà ông có (đến nay là 51 bản Kiều chữ Nôm). Nghĩa là, bằng kiến thức và cảm nhận của mình, khi thấy một chữ nào đó không thích hợp, ông sẽ lục tìm trong tất cả các bản còn lại để xem xét và lựa chọn xem chữ nào hợp lý hơn, chính xác hơn để thay vào vị trí đó. "Tôi không dám lấy một chữ nào ở trong đầu tôi ra cả".
Sửa hơn 700 câu Kiều
Bản dịch của Đào Duy Anh chép : Quản chi lên thác xuống ghềnh/ Cũng toan sống thác với tình cho xong (câu 1951-52). Nhưng theo ông Bảo, câu đó phải là : Quản chi trên các dưới duềnh. Theo ông, câu này dựa theo hai điển tích về hai nhà thơ đời Sở, Hán là : "Dương Hùng đầu các nhi tử, Khuất Nguyên tự trầm Mịch La" (Dương Hùng đâm đầu từ trên lầu gác xuống chết, Khuất Nguyên nhảy xuống sông Mịch La tự vẫn).
![]() |
Chân dung Nguyễn Khắc Bảo do một người bạn của ông tặng |
Các nhà khảo cứu hiện đại có lẽ đã bỏ qua tích này, và đều theo Kiều Oánh Mậu chữa thành lên thác xuống ghềnh. Mới đọc tưởng có vẻ hợp với anh lái buôn Thúc Sinh, nhưng lại không đúng cốt truyện và không thể hiện được vốn kiến thức uyên thâm của Nguyễn Du.
Lại có câu lâu nay được quen đọc là Vực ngay lên ngựa tức thì, tả cảnh bọn Khuyển Ưng nhận lệnh Hoạn Thư, đánh thuốc mê cô Kiều rồi xốc lên ngựa bắt về. Theo ông, từ "vực" để chỉ việc "khiêng" lên từ từ. Phải thay từ "vực" bằng từ "dẩy" mới lột tả được hết bản chất của bọn Khuyển Ưng, mới đúng với bọn đi ăn cướp, bắt cóc. Còn nếu bọn chúng chỉ vực ngay lên ngựa, sau này lại vực xuống dưới thuyền, rồi lại vực xuống môn phòng, thì hoá ra bọn này tử tế quá sao.
Câu 1919 : "Đưa nàng đến trước Phật đường" phải thay từ "nàng" thành "chàng". Như vậy, cuộc đi tu của Thúy Kiều có ba nhân vật. Bởi vì theo nguyên truyện của Thanh Tâm Tài Nhân thì Hoạn Thư bắt Thúc Sinh phải cùng đến Quan Âm các để chàng Thúc đau lòng chứng kiến cảnh nàng Thuý Kiều đi tu. Thế mới thấy hết được sự thâm hiểm của họ Hoạn. Mà Thúy Kiều chỉ là con ở thôi, sao Hoạn Thư lại phải "đưa".
Nguyễn Khắc Bảo sửa câu : "Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa" thành "Xót lòng trinh bạch từ lâu đến giờ". Theo ông, sự thay đổi từ ngữ của bản Đào Duy Anh gây thất vọng về bản lĩnh của Thuý Kiều. Sao lại hèn kém đến mức phải xin chừa cả chút lòng trinh bạch của người con gái.
Thực ra, các nhà biên khảo đã nhầm. Câu thơ của các bản Kiều cổ : Xót lòng trinh bạch từ lâu đến giờ cho ta hình ảnh Thuý Kiều chung thuỷ tột bậc với người yêu. Khi sắp phải dấn thân vào con đường nhơ bẩn, nàng vẫn nhớ đến chàng Kim Trọng và chua xót cho việc mình đã "hoài công nắng giữ mưa gìn" lòng trinh bạch từ lâu đến giờ. Để đến nỗi sa vào cảnh "hồng ngâm cho chuột vọc, mình ngọc cho ngâu vầy".
Ông cho rằng, thế mới đúng với tâm trạng của Thúy Kiều, mới phù hợp với mạch tư duy trước đó của Thuý Kiều : Biết thân đến bước lạc loài – Nhị đào đã bẻ cho người tình chung. Đã có hàng trăm trường hợp khác cũng được ông chữa và chú giải một cách chu đáo.
Nỗi lòng của người sửa Kiều
Theo ông Bảo, sở dĩ ông có thể sửa được những chữ trong bản Kiều quốc ngữ của Đào Duy Anh là do ông có nhiều "bột" hơn, nhiều bản Kiều cổ hơn. Mặt khác, ông lại có một vốn kiến thức Hán – Nôm để có thể hiểu đúng với nguyên tác nhất. Có đọc đúng mới thể hiện được hết tài năng, nỗi lòng của Nguyễn Du. Mới thấy hết được tấm lòng trắc ẩn và kiến thức thâm sâu của cụ Tiên Điền. Trong khi cụ viết thế này mà con cháu lại hiểu sai đi là không được.
Nguyễn Khắc Bảo nhắc đi nhắc lại rằng, ông chỉ là một thầy lang ở vùng Kinh Bắc, một người nghiên cứu "nghiệp dư" chứ không phải giáo sư, tiến sĩ gì, nhưng vì lòng yêu mến Truyện Kiều, yêu mến Nguyễn Du, ông quyết trả cho Nguyễn Du những gì là chân xác nhất. Cho dù điều đó chưa dễ gì được người đời công nhận.
Nguyễn Khắc bảo sinh năm 1946, Uỷ viên Thường vụ BCH Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Bắc Ninh, Hội viên Hội Đông Y Việt Nam, Hội viên Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam. Đến nay, ông đã kỳ công sưu tập được 51 bản Kiều Nôm cổ, trong đó có 9 bản chép tay, còn lại 35 bản khắc in các lần khác nhau. Ngoài ra, ông còn có trong tay 58 bản in quốc ngữ. Truyện Kiều là kiệt tác văn học bậc nhất của văn chương Việt Nam, góp phần không nhỏ trong việc tôn vinh Đại thi hào dân tộc – Danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Du. Nhưng đến nay, văn bản gốc có thủ bút của tác giả vẫn chưa sưu tầm được. Do đặc điểm của chữ Nôm là chưa được điển chế một cách chính quy và chặt chẽ, nên nhiều khi, các bản Nôm đã chép thống nhất về mặt chữ nhưng khi phiên âm sang Quốc ngữ lại vẫn sai khác nhau. Tại Hội thảo quốc tế về chữ Nôm (12/11/2004), Nguyễn Khắc Bảo đã trình bày một bản tham luận "sửa Kiều", dẫn ra 21 trường hợp bản Kiều quốc ngữ của học giả Đào Duy Anh là sai. Sau hai mươi năm bền bỉ khảo cứu Truyện Kiều, ông đã sửa 918 chữ ở 701 câu so với bản Kiều phổ biến nhất hiện nay của Đào Duy Anh (1979) và đề xuất một bản Kiều gần với nguyên tác nhất. Những kiến giải của ông đã được Nhà xuất bản Giáo Dục xuất bản thành sách vào tháng 8 năm 2009 do Nguyễn Hữu Sơn và Nguyễn Khắc Phi thẩm định. |
Hoàng Giang – Theo TVN