Nhà thơ Trần Đăng Khoa

– Điều gì đã làm lên sự sống mãnh liệt đến độc đáo ở Trường Sa trong thơ anh? Thực tế cuộc sống hay một trí tưởng tưởng phong phú?

– Trường Sa là một vùng đất thiêng, nhạy cảm và đầy sóng gió. Sóng gió hiểu theo cả nghĩa rộng. Vì thế vai trò của người lính biển rất quan trọng. Còn những sóng gió, bão tố đơn thuần của thiên nhiên, lính biển “chấp tất”. Tôi đã sống với họ nhiều năm, tôi tin và khâm phục ý chí và sức sống mãnh liệt của họ.

– Đọc thơ anh, người đọc cảm nhận “hòn đá” ở Trường Sa cũng có hồn như người chiến sĩ. “Đá” ở đây  được diễn tả theo lối nhân hoá hay chính “đá” vốn đã là biểu trưng cho sự sống Trường Sa?

– Sức sống của người lính Trường Sa mãnh liệt lắm, ở trong hoàn cảnh nào cũng sống được. “Dẫu chẳng có mưa chúng tôi vẫn sinh tồn trên đảo”, và không những sinh tồn mà còn bền vững như đá. Nhưng bên trong những tảng đá ấy lại có trái tim con người thao thức đập. Sự bền bỉ, kiên cường của những người lính đảo cũng chính là sức dẻo dai của dân tộc Việt Nam trước bao biến cố của lịch sử.

Nhà thơ vừa nhắc đến một câu trong bài “Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn”, bài thơ từng đoạt giải nhất cuộc thi báo Văn Nghệ và được rất nhiều lính đảo ưa thích…

– Trường Sa vào mùa khô không có mưa, nước ngọt rất hiếm. Hằng ngày lính tắm bằng nước mặn, thậm chí phải nấu cơm bằng một phần nước mặn nên hạt cơm cứ sậm sật. Tiết kiệm đến mức nhiều anh lính phải cạo trọc đầu. Có những đơn vị tôi đặt chân đến, nhìn đằng trước, đằng sau cứ “tròn lông lốc”. Ước mơ của lính ở xứ sở này đơn giản đến mức kỳ lạ, chỉ mong có được những bữa tiệc linh đình bày toàn nước ngọt. Và rồi lại mong mưa, để được ngửa mặt hứng nước…

– “Phút chia tay, anh dạo trên bến cảng/ Biển một bên và em một bên”. Bài thơ, bài hát lâu nay được coi như bản tình ca của những người lính biển…

– Đấy là công của nhạc sĩ Thế Dương. Một lần, Thế Dương bảo tôi: “Lính đảo khổ quá, nhất là tình cảm. Cậu cho tớ một ca từ về tình yêu để tớ phổ nhạc”. Thế là tôi viết bài “Thơ tình người lính biển”. Thực ra, đấy là ca từ, viết theo khúc thức của âm nhạc, chứ không phải thơ. Lúc đầu tôi đặt là “Chút thơ tình của người lính biển”, tặng riêng cho Thế Dương. Thế Dương, là người đầu tiên phổ bài thơ này. Người thứ hai là nhạc sĩ Đăng Đước, ông giữ nguyên bài thơ và phổ với tiết tấu rất vui, nhộn. Rồi sau cùng mới đến Hoàng Hiệp. Nhạc sĩ Hoàng Hiệp ướt át hơn cả. Có lẽ đảo khô nên cần ướt. Bài thơ nhờ thế mà gần gũi với mọi người, đặc biệt là cánh lính biển.  

Tiểu thuyết “Đảo chìm”, tác phẩm đã qua 25 lần xuất bản nhưng vẫn được đông đảo bạn đọc trong và ngoài nước đón nhận, đã được dựng thành phim và dịch sang tiếng Nhật. Thưa nhà thơ, điều gì đã làm nên một “Đảo chìm” với số lần xuất bản kỷ lục như vậy?

– Cái thực của đời sống. Tự nó đã là một huyền thoại. Đó là những câu chuyện đã có sẵn trong đời sống của lính đảo những năm đó, nhân vật đều là người thật. Nhiều người hiện vẫn còn sống. Đời sống tự nó đã là một vẻ đẹp rồi, người viết không cần phải thêm thắt, hư cấu. Tôi chỉ có một cố gắng nhỏ là vun vén lại cho gọn. Kể sao cho thật hấp dẫn.

– Anh đã viết rất nhiều những bài thơ về hòn đảo mà anh cho là “kỳ lạ” này; “Đồng đội tôi trên đảo Thuyền Chài”, “Ghi ở đảo chìm”, “Lính đảo chìm”, “Đoạn văn xuôi chép ở đảo chìm”…, hình như hòn đảo này đã ám ảnh anh nhiều nhất?

– Đúng vậy. Bởi sự độc đáo. Hòn đảo vẫn còn chìm dưới nước, như một cái bào thai. Tôi đến Trường Sa những năm đảo còn hoang lạnh, còn nguyên vẻ hoang sơ. Nhiều đêm, ngồi trong lều bạt, giữa một bầu mây nước hỗn mang, hòn đảo vẫn réo gầm dưới sóng. Nó như đang quẫy đạp, đang giãy giụa, muốn xé toang cái bầu nước âm u vây bọc kia để ra đời. Nhưng theo tính toán của các nhà khoa học, thì phải hơn một trăm năm nữa, nó mới nhô lên khỏi mặt nước để trở thành một hòn đảo bình dị. Tôi bị ám ảnh bởi tự thân hòn đảo có một ý nghĩa rất hay, đó mới chính là mô hình của một vẻ đẹp.

– Anh sẽ còn viết vế Trường Sa, về những người lính giữ biển?

– Trường Sa là lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc, nơi đây vẫn còn nhiều vấn đề rất hay để khai thác, tạo dựng những tác phẩm lớn. Tôi sẽ còn tiếp tục viết nhiều về người lính thời bình, những người đang canh giữ biển trời Tổ quốc. Trong chiến tranh người ta hy sinh bởi bom đạn và được khẳng định bằng những chiến công. Nhưng trong thời bình, những người lính vẫn tiếp tục hy sinh và tạo dựng những chiến công không ai nhìn thấy được.

– Xin cảm ơn nhà thơ!

 
Theo Đất Việt Online

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *