Phần I: Ít nhiều “lãng mạn”
Tôi toan viết ra những chuyện dưới đây mà lấy làm lúng túng về cái đầu đề. Nhân nhớ lại khoảng năm 1932 ở Sài Gòn, một hôm vào lúc chín giờ tối, tôi đến một khách sạn tây ở đường phố Catinat thăm một ông bạn cũ ở Bắc mới vào, bắt tay nhau, ông ấy nhìn tôi, vừa cười vừa nói cùng tôi bằng cái giọng đùa bỡn thân mật rằng: “A, huynh ông! Biệt nhau thế mà đã sáu, bảy năm rồi! Xem ra huynh ông không được đẫy bằng hồi ở Hà Nội. Thảo nào người ta nói “ngài” ở đây sanh hoạt một cách lãng mạn lắm thì phải!”.
Với câu ấy, bấy giờ tôi cũng cười xề xề như chẳng quan tâm đến rồi bắt sang chuyện khác; nhưng khi về đến nhà, nằm một mình, tôi đâm ra nghĩ ngợi.
Ông ấy nói mình sanh hoạt lãng mạn, lãng mạn là nghĩa thế nào? Romantique chăng? Chỉ về sanh hoạt kia mà, hẳn là không phải. Nhầm rồi, đây người ta muốn bới sự chơi bời phóng đãng của mình mà người ta không nỡ nói trắng ra, nên dùng cái danh từ “lãng mạn” chớ gì?
Nhớ lại mẩu chuyện ấy rồi, tôi không còn phải lúng túng nữa mà lấy ngay hai chữ “lãng mạn” làm đầu đề cho bài này. Vả lại cái đời của tôi cũng không phải lãng mạn suốt cả đời; muốn nói cho đúng, đừng bớt mà cũng đừng thêm, tôi phải hạn chế bằng hai chữ “ít nhiều” ở trên nó.
Tôi sanh ra trong một gia đình mà ở đó có cho đến hai cái gương cho tôi về sự “sống ở đời”. Hai cái gương, mỗi cái lại là một cực đoan. Tôi là người trực tiếp chịu ảnh hưởng cả hai thì bảo sao cái thái độ sống của tôi chẳng có khi thay đổi, đương là chiều này day qua chiều khác? Hai cái gương và hai cái cực đoan ấy, một là cha tôi, một là ông tôi.
Cha tôi, một kiếp người là một sự cẩn thận. Sau khi đậu phó bảng, làm thuộc viên ở kinh vài năm, đi ra làm tri phủ một năm rồi cáo xin về, ở nhà cho đến chết. Thấy nói thôi không làm quan nữa là tại sợ mà không dám làm, chứ không có ý gì khác. Người chẳng có cái thị hiếu gì ngoài sự đọc sách. Không cần phải nói không uống rượu, không đánh bạc… Đến vợ, năm 39 tuổi, đứt dây đờn lần thứ hai, người ở vậy cho tới 73 tuổi thì xuống mồ.
Ông tôi sanh vào đời Minh Mạng, đậu hồi Thiệu Trị, làm quan hồi Tự Đức, mất hồi Thành Thái, nghĩa là đã “hạ lớp” rồi, cha tôi mới “ra”, cho nên cái sự khác nhau của hai người cũng có lẽ là vì hoàn cảnh.
Nghe kẻ lớn kể chuyện lại thì ông tôi trong lúc trai thật đã đủ điều. Giỏi cả nghề côn quyền nữa. Vào giữa thuở thuốc bị cấm nghiêm lắm, mà nửa đêm, tại nhà cô Án Đạt, hoa khôi đất kinh đô buổi ấy, người đã lấy sức một mình đánh để thoát thân với năm mươi lính trấn phủ, chúng đến vây nhà mượn cớ bắt “ngật yên” mà thực ra thì để hạ kẻ tình địch của ông quan trên mình.
Tôi lớn lên thì thấy ông tôi mỗi ngày uống chè tàu hai bận: sớm mai và chiều. Chè ô long, ve độc ẩm, pha theo một phương pháp; tôi phải cố học qua mấy bận, sau mới pha hầu ông tôi được. Cơm thì ăn ba bữa, thỉnh thoảng có uống rượu, uống vào bữa trưa. Độ một tháng hay nửa tháng, gọi người mang “bàn đèn” đến, hút chừng mấy điếu vào buổi tối.
Một đoạn tự bạch mới tìm thấy của Phan Khôi
Phan Khôi (1887 – 1959) là một trong những gương mặt lớn của làng văn, làng báo Việt Nam thế kỷ 20. Ông đã từng sống, làm báo làm văn ở những trung tâm văn hoá lớn nhất trong nước như Sài Gòn, Hà Nội, Huế. Nhắc đến Phan Khôi, người ta thường nói đến tính cách “Quảng Nam hay cãi” biểu lộ cực kỳ rõ rệt nơi con người ông. Song nét đặc trưng riêng biệt của “tính cách Phan Khôi” lại là nét này: ông hầu như không thể nói dối, không biết nói dối. Có khá nhiều người mang tính cách “hay cãi” của người xứ Quảng, nhưng họ vẫn không đủ bản lĩnh để có thể thật thà như Phan Khôi. Sự trung thực trong tính cách Phan Khôi có thể khiến ông gặp bất lợi trong những cảnh ngộ nhất định, song rốt cuộc, đây vẫn tỏ rõ là một tính cách hay. Chẳng hạn, ở đoạn tự truyện của Phan Khôi mà tôi mới tìm thấy và giới thiệu lại dưới đây, chính là tính cách trung thực đã khiến Phan Khôi có thể nói thật về phương diện sinh hoạt cá nhân thường ngày của mình, điều mà nhiều người thường tìm cách che đậy hoặc lảng tránh. Xin giới thiệu với bạn đọc đoạn tự truyện này; nhân 50 năm ngày ông mất, chúng ta đọc nó để nhớ tới Phan Khôi. |
Ông tôi có ghiền mất ba năm hồi ở Thái Nguyên. Nhưng khi định về hưu, xuống Hà Nội uống thuốc cai rồi mới về, bấy giờ người vừa sáu mươi tuổi.
Tôi có lần bưng tráp đi hầu ông tôi tới chơi một nhà quen thân trong làng. Tưởng chơi gì, té ra là đánh me: người cùng dăm ba ông nữa ngồi vây lấy một chú khách hốt cái.
Những chuyện tôi kể đó, tôi thấy vào hồi ông tôi lên 75 tuổi cho tới 80. Đến năm 84 tuổi người qua đời. Kể cả thê và thiếp, ông tôi già lại, còn bốn bà cả thảy. Cô con gái út sanh vào năm ông tôi 65 tuổi, do bà thứ tư.
Chỉ bấy nhiêu như trên đó đã thấy ông tôi là người khoáng đạt, không câu kiểm, cái thái độ khác hẳn với cha tôi. Tuy vậy mà ông tôi lại là người cương trực, công bình, cần kiệm và nhứt là có trật tự: giữa xã hội An Nam, tôi chưa hề thấy có người thứ hai đủ các đức tánh tốt ấy tuy đến nay tôi đã ngoài năm mươi tuổi.
Có lẽ bởi tôi ở gần cha nhiều hơn, nên thuở thanh niên tôi đã ăn ở theo khuôn rập của người. Năm 16 tuổi, tôi có bị khủng hoảng về tinh thần mất một độ, chỉ một độ thôi, tôi lại được kéo trở vào khuôn. Sau tôi tu tỉnh lấy mình thì cơn khủng hoảng này đã gieo giống ở tôi từ hai năm trước. Bấy giờ chúng tôi đang sùng sục đọc sử Tấn ở trường học, thấy trong đó có những tay danh sĩ khoáng đạt như Trúc Lâm thất hiền thì đem lòng hâm mộ. Hai năm sau, học trường khác, nhưng lại gặp bạn cũ, trong đó có một anh lớn tuổi hơn tôi, là kẻ đứng đầu sự hâm mộ năm trên. Anh ấy giảng cho chúng tôi nghe: cuộc đời là vô vị cả, muốn cho hữu vị, chỉ có rượu và thơ. Rồi rủ nhau thực hành: uống rượu và ngâm thơ. Thơ toàn là bố láo chẳng ra câu kẹo gì, mà rượu thì có một đêm đã làm tôi say bất tỉnh. Hay được, ở nhà gọi về mắng cho một trận, từ đó tôi hối ngộ không hề tái phạm cho đến bốn năm sau.
Năm 20 tuổi đi thi khoa Bính ngọ Thành Thái năm thứ 18, hôm xem bảng và phúc hạch, thấy không có tên, tôi mua rượu uống một mình. Uống đến nỗi từ trường thi trở về, đi ngang qua cửa Ngọ Môn mà không nhìn thấy, như có nói trong một bài tự truyện trước.
Đậu tú tài về ở nhà cho đến đầu năm 1908 đi Hà Nội, cả cái thời gian ấy thật tôi đã dẫn mình đi trong con đường rất có quy củ. Không phải nói quá, lúc đó tôi có ý lấy một thân kiêm cả hào kiệt và thánh hiền. Qua đầu năm sau, tôi cũng còn chưa đổi ý và cứ răn can các bạn cọng nạn vì giải buồn đi theo những thú yên hoa trà tửu. Song chẳng bao lâu, không biết có vì một cớ gì đó hay không vì cớ gì cả, tôi đâm ra chơi bời còn hơn các bạn của tôi. Tôi cùng hai “đồng chí” nhờ đó, bê tha đủ đường. Tôi uống rượu đã nổi tiếng là vô địch. Có một lần say từ chiều hôm nay đến chiều hôm sau mới tỉnh. Lúc tỉnh, tôi nghĩ chỉ còn có một nước tự tử, vì xấu hổ quá, không thể mở mắt trông thấy ai nữa. Nhưng, để cho khỏi chết, tôi trùm mền phủ đầu nằm luôn một đêm một ngày nữa mới dậy. Trong lúc đó, tôi tự lập luật cho mình rằng từ nay về sau, uống mấy thì uống nhưng đừng say.
Theo Lại Nguyên Ân (sưu tầm và giới thiệu) – SGTT