Lưu Quang Vũ là trường hợp đặc biệt, khi những chuyển dịch trong sáng tạo ngôn ngữ thơ của ông đến từ biến chuyển tự nhiên của tâm thức, chứ ít có liên quan trực tiếp đến những ảnh hưởng từ sách vở [1].

Tiếp sau thế hệ vàng, Trần Dần, Quang Dũng, Hữu Loan, Hoàng Cầm, Đặng Đình Hưng, Văn Cao… với những cách tân âm thầm, nhẫn nại xói mòn thứ cảm thức chiếu lệ và kiểu ngôn từ sáo rỗng, áp đặt cùng thời, Lưu Quang Vũ là nhà thơ duy nhất của miền Bắc tự tìm đến những phạm vi hiện thực khác biệt sâu sắc của thơ ca, làm phát lộ những đường biên mới mẻ trong con người sáng tạo, và bước đầu khơi mở một dòng ngôn ngữ vừa mang tính siêu thực – tượng trưng, vừa tiềm ẩn những lối phá vỡ kiểu trữ tình truyền thống, đạt tới lối biểu tượng hiện đại và đương đại.

Xét trên toàn bộ văn bản thơ, mật độ dùng lại những ẩn dụ truyền thống của Lưu Quang Vũ khá nhiều, liên tục và rộng khắp. Tuy nhiên, ngay cả trong những lối dùng ẩn dụ này, cũng đã hình thành một trường giao tiếp ngôn từ đặc biệt, mà chúng ta sẽ trở lại ý tưởng này sau đây. Những biến chuyển quan trọng nhất của ngôn ngữ thơ Lưu Quang Vũ tập trung ở thời kỳ sáng tác 1970 – 1975, và đó là phạm vi khảo sát căn bản của bài viết này.

  ***

Bi kịch của Lưu Quang Vũ, trên góc độ con người lịch sử, là bi kịch của lý tưởng làm người bị bội phản và xúc phạm. Tuy nhiên, điều chúng ta quan tâm hơn là con người sáng tạo của ông, chi phối mọi nhân cách khác. Lưu Quang Vũ viết thơ xuất phát từ tư duy lý tưởng hoá, nhưng không có gì liên quan đến những hình mẫu áp đặt duy lý. Lý tưởng hoá của ông gần gụi với bản năng tôn giáo, xuất phát từ nhu cầu nội tại, là sự hoá nhập trong sáng của kính ngưỡng và ham muốn, vừa kiếm tìm vừa chiếm hữu, vừa từ bỏ vừa khao khát

Đêm tối đen chiều hoang buồn tủi / người đàn bà ấy đến bên tôi / mắt mênh mông lặng lẽ ngón tay gầy / giọt mưa lạnh chảy dài trên má / ngọn đèn vàng ô kính vỡ / con ngựa gầy phiêu bạt thảo nguyên xa / Tôi lớn lên trong ngọn gió nhà ga / ngọn gió dữ của rừng già khắc nghiệt / bao giấc mộng gió đuổi về dĩ vãng / chỉ thổi bùng nỗi nhớ về em / bao lưỡi lê đỏ sẫm máu hoàng hôn / tường gạch đổ bao tờ lịch nát / tôi bôi xoá rất nhiều thề ước đẹp / riêng với em tôi chẳng phản bao giờ / Người đàn bà chơ vơ / đi vòng quanh chiếc đĩa hát khổng lồ / trong bản nhạc đợi chờ của Grich / gương mặt đẹp chập chờn sau lọ mực / khi âm thầm tôi viết những dòng thơ…

Điều dễ hiểu là lý tưởng làm người của Lưu Quang Vũ xuất phát từ sự lý tưởng hoá sáng tạo này, trở thành một phần sống động, không thể thiếu, trở lại lay động và thôi thúc con người sáng tạo. “Đạo đức” với Lưu Quang Vũ là sự thuần khiết của lý tưởng, là dâng hiến, nó là vấn đề của tâm hồn chứ không liên quan đến giáo lý. Chính vì thế, chưa bao giờ ông thoả hiệp [2] và cũng chưa bao giờ có tiếng nói đạo đức chung với môi trường bên ngoài.

Thơ Lưu Quang Vũ tráng lệ bởi thẩm mỹ lý tưởng:

  Những ban mai xanh biếc tiếng đàn bầu

Nhưng điều quan trọng nhất là không còn một dấu vết nào của thế giới luận lý, của lối hình dung mang tính luận lý. Dòng thơ trữ tình Việt truyền thống vốn là một kiểu biến tướng qua lại giữa cảm xúc và logic luận lý, nên chưa bao giờ đi được tới những lãnh địa xa xôi của tâm thức, chưa vỡ vạc những dòng chảy hình ảnh lạ lùng, cảm hứng luôn bị bó hẹp trong những mô thức trữ tình đã mòn mỏi, xơ xác, kể cả với những tên tuổi Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên thời kỳ Thơ Mới [3].

Chỉ riêng đặc điểm kể trên đã đủ để xếp Lưu Quang Vũ là một trong những nhà cách tân hiện đại và đương đại sớm nhất của thơ miền Bắc.

Dòng thơ miền Bắc đương thời, tiếp nối truyền thống “thi dĩ ngôn chí” cổ văn, thừa kế rất ít những biến chuyển tư duy của Thơ Mới, coi lãnh vực đạo đức xã hội và quan hệ giữa con người là nội dung hiện thực cơ bản [4]. Trong khi đó Lưu Quang Vũ, bằng tâm hồn nhạy cảm mãnh liệt đã tạo ra một thế giới thơ gây chấn động, với xáo trộn, dằn vặt, âu lo, run rẩy, sợ hãi, khao khát, mặc dầu chưa tới mức cuồng nộ, nhưng là sự vượt thoát khỏi trạng thái cân bằng tâm lý và cảm xúc thông thường.

Chính sự dao động khỏi cái ổn định mà nhận thức thông thường bị khép vào, bị buộc thừa nhận như kiểu bản thể phổ biến trong trật tự trì trệ; hé lộ cái nhìn về phần bất an, nghịch dị, nổi loạn và phóng túng trong bản chất thiên phú của con người, mà thơ Lưu Quang Vũ trở nên hấp dẫn, quyến rũ với người đọc tại nhiều thời điểm.

Ham muốn thuần khiết, sự đổ vỡ của con người đạo đức, nỗi đau đớn âm thầm là những động lực chính yếu mạnh mẽ nhất thúc đẩy Lưu Quang Vũ xoá bỏ cái thực tại vật chất, cái gọi là “hiện tại” với số đông, phiêu dạt và hành hương tới những ranh giới của tiềm thức và vô thức, hút lấy cái vô biên kỳ diệu của những biểu tượng nguyên khối, và trở về trong lối biểu đạt thơ mới mẻ.

Cũng chính nỗi dằn vặt thường xuyên của một tâm hồn chỉ được nương nhờ vào sự mênh mông và khao khát, tự ý thức của riêng nó, đã dẫn ông tới những cửa ngõ vô biên

Tâm hồn anh dằn vặt cuộc đời anh / Thắp một ngọn đèn hồng như ánh lửa

Cho đến hiện tại, ít có nhà thơ Việt nào, dù đạt tới những đổi mới đáng nể về ngôn ngữ, thi pháp, có được một trực cảm mãnh liệt, phá huỷ, và nội tâm huyền ảo như Lưu Quang Vũ.

***

Cho đến thời đại Thơ Mới, những yếu tố siêu thực – tượng trưng đã xuất hiện khá rõ nét trong tư duy thơ của Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Vũ Hoàng Chương… nhưng chưa đảo lộn được nền móng ngôn ngữ cổ điển. Tương quan trung tâm của con người trong phối cảnh với thế giới khách thể, nhất là với các hình ảnh thiên nhiên, cho phép tạo ra những ẩn dụ tương đồng, một chiều, như “ lệ liễu”, “nét thu”, “áo mơ phai”, “ màu quan tái”, “ bến nước, con đò”, “ vầng trăng sẻ nửa”, “ gió mây”, “ bóng chim tăm cá”, “ bầu rượu túi thơ”, “dặm trường”, “ sóng lòng”, “ hoa tường liễu ngõ”, “đài gương dấu bèo”, “ con cá lá rau”… Lối ẩn dụ tương đồng này trói chặt cảm thức thi ca trong khuôn mẫu tương tác “tức cảnh sinh tình” và “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, thế giới khách thể mãi mãi là đối tượng tham chiếu một cách buồn tẻ với nội tâm con người, trong những vui buồn kiểu cảm thán, là hệ quả trực tiếp của sự kiện vật thể trong đời sống (ví dụ, đói nghèo hay chiến tranh, hay bất mãn với văn minh vật chất… ).

Lặn sâu vào những giấc mơ của tiềm thức, hay tìm đến mối tương hợp của các cảm giác, làm hiển hiện thế giới trước hết ở những hình ảnh giấc mơ hay cảm giác dịch chuyển, là một cách xoá bỏ ẩn dụ đơn nhất, xoá bỏ mối tương quan đối ảnh chán ngấy giữa con người và thế giới bên ngoài, đồng thời làm hiện hình một thế giới mà hình bóng, cảm giác từ “cái bên ngoài” đang chuyển hoá thành “cái bên trong”, thành nội tâm sâu, cao, rộng thăm thẳm của con người. Tư duy siêu thực – tượng trưng làm nhoè những vùng đơn nghĩa của ngôn từ và hình ảnh, tạo ra những trường nghĩa, trường biểu cảm mạnh mẽ, lay động.

Khách thể hoá, hay thơ khách thể, cực đoan và ở cấp độ cao nhất, xoá bỏ ẩn dụ đơn nghĩa. Không còn dấu vết của đối ảnh hay sự chuyển hoá giữa “bên ngoài” – “ bên trong”, mà cái khách quan không kịp lý giải, không qua “nhận thức”, tràn vào xâm lấn chủ thể; chủ thể trữ tình theo cách gọi quen thuộc, biến thành cái liên – chủ thể, bao gồm nhiều thực tại, nhiều mối tương tác mà kinh nghiệm cá thể cũng như hoạt động tinh thần đơn lẻ của một con người (cảm xúc, trực giác, lý tính ) không thể thâu tóm, định hình và trao cho các thực tại ấy một bản sắc đơn nhất. Thơ khách quan triệt để xoá bỏ “con đường vòng” ẩn dụ, đẩy ngôn ngữ thơ trở về hình thái biểu tượng ban đầu vốn tràn đầy của nó, nén chặt trong nội hàm các cấp độ thông tin khác nhau.

Thơ Lưu Quang Vũ xuất hiện cả hai yếu tố siêu thực- tượng trưng và khách thể hoá một cách dễ nhận biết, đậm đặc.

… Những ban mai xanh biếc tiếng đàn bầu

Bà hiền hậu têm trầu bên chõng nước

Em đi gặt trên cánh đồng cổ tích

Lúa bàng hoàng chín rực cả triền sông…

Hay:

Chúng ta ăn một quả dưa vàng

vào lúc mười hai giờ trưa mùa hạ nắng

nở bàng hoàng hoa tím khắp đường đi…

Em tới làm gì có phải đúng em không

Cảng đã thêm những con tàu mới những manh buồm

con còng gió đã về với biển

hàng dương xanh loá mắt

chiếc dù mở đến mênh mông

màu da nâu lấp loáng không trung

vầng trán bàng hoàng xa thẳm

Dòng chảy tâm thức khái hoạt xô vỡ hoàn toàn những đập chắn của trật tự vật lý và quan sát lý tính, từ không gian, sự vật, màu sắc, đường nét, hương vị, để câu thơ trở thành cảm giác và giấc mơ thuần túy. Sự đảo lộn cảm giác về không gian là một trong những yếu tố quan trọng để sắp đặt kiểu ngôn ngữ siêu thực – tượng trưng cũng như ngôn ngữ biểu tượng trong thơ Lưu Quang Vũ. Không còn cảm giác của con người đứng trên mặt đất nhìn không gian cao hơn đang mở ra, mà là con người hiện hữu ở những độ cao khác nhau, thu hết mênh mông từ nhiều chiều

Sao em chẳng cùng anh ra cửa biển

Mùa thu cao mây trắng xóa mênh mông

Những hình dung từ, trạng từ thông thường, trong không gian thơ Lưu Quang Vũ trở thành những kết hợp đa hướng, miêu tả đồng thời tâm thức và cảm giác “ngoại giới”, mà quan trọng hơn là tạo thành một trường – cảm giác trung gian, ở đó cái “bên ngoài” và “ bên trong” cùng chia sẻ, cùng trở thành kiểu chủ thể đa dạng thức.

Cảm giác không gian của Lưu Quang Vũ, ngoại trừ với những bài thơ “phóng sự”, “ ghi vội” năm 1972, và một vài trường hợp đặc biệt, cũng hạn chế tối đa miêu tả âm thanh, tiếng động, những bài còn lại gần như hoàn toàn triệt tiêu mô tả tiếng động bên ngoài cũng như cảm giác về tiếng động đó. Chỉ tồn tại âm nhạc của nội tâm vừa xô đẩy dồn nén, vừa mênh mông, mỗi lúc thêm trùng điệp, tỏa ra vô tận nhờ sự cắt đứt với âm thanh bên ngoài. Nhịp thơ Lưu Quang Vũ chưa hoàn toàn thoát khỏi vần điệu, nhưng một phần nhờ vần điệu, lại bao hàm cung cách tự do vô tận, nén chặt nội tâm, một thứ âm nhạc vô biên, “ nhạc trắng” (như cách nói của A. Baricco).

Gắn liền với yếu tố không gian, lối xây dựng hình ảnh trong thơ Lưu Quang Vũ mang những đột biến về tư duy, mà phía sau nó chính là sự bí ẩn của dòng biểu tượng mà chúng ta đang quan tâm.

Sự chiếm lĩnh của những yếu tố khách thể “ bất tri” vào dòng tâm thức diễn ra trên nhiều cấp độ. Yếu tố tự sự, như một cách phá vỡ dòng trữ tình cảm thán quen thuộc của thơ Việt, tràn vào thơ Lưu Quang Vũ không phải như một thực hành cố ý, mà giống như trạng thái “quá tải” của tâm thức.

Nửa đêm tới thành phố lạ gặp mưa

những vòm cây cao và tối

chúng ta đã gặp nhau chúng ta đã tới đây

tất cả điều này có vẻ gì không thực

đến bây giờ anh vẫn còn kinh ngạc

Em

con tàu về cảng mưa đêm

ngã tư ngô đồng rụng lá

con sông mờ thân cầu đổ

dãy nhà hoang ống khói âm thầm

Hay:

Anh lên xứ Đoài xưa / Ba vì mây trắng / nhớ mặt em gầy sau lá mưa / Lênh đênh bến nước Trung Hà / những chị buôn chè ngủ hè phố cũ / con bò gầy đói cỏ / đi trên đồng mê man / Những pho tượng gỗ chùa Phùng / thiêm thiếp dưới tầng lá mục / còm cõi bà già chợ huyện / khóc thời con gái thuốc lào say / ông tiến sĩ giấy ngồi chắp tay / ham rượu nên vua bỏ / hia rách áo hồng ủ rũ / Em mua về cho anh khuôn tượng dân gian / anh treo lên tường / nhìn mà thương em / thắp một tuần nhang / lau lại bức sơn dầu lấm bụi / cô Kiều đàn nguyệt tặng chàng Kim / Người họa sĩ nay giả điên / mặc áo mưa đi lang thang / giấy vụn lông chim dính đầy tóc bạc / Tranh đẹp chẳng ai mua / căn gác xép gió lùa / họa sĩ già nằm dưới pho tượng cổ / nghe trong đầu sóng vỗ / tiếng trẻ con thì thào / bàng hoàng thức dậy / ôm phích nước hát nghêu ngao / “người đẹp trong tranh chẳng có đâu / mong gì kỳ ngộ” / Em đừng thương anh nữa / anh đi lủi thủi trên đường / đánh mất lòng tin / tìm về bếp lửa / xem trẻ mục đồng múa trong tượng gỗ / những đôi vợ chồng cởi áo cho nhau / Bài thơ không đề / chép trên giấy bản / em cần gì giếng lạnh / tâm hồn anh cô quạnh dưới lòng sâu / Ngẩng lên biền biệt mây cao / cuộc đời thăm thẳm / tình anh như cỏ lau / tìm nhau trên đất vắng / nơi ấy em về mưa sẽ tạnh/ hoa cúc vàng nở trên cánh tay…

Câu thơ được lược bỏ hầu hết các tính từ, từ cảm thán, thay thế bằng những hình dung từ đa hướng, gia tăng các yếu tố thông báo, những chi tiết tự sự tỉ mỉ, tưởng như có thể kể lại theo lối văn xuôi, hoặc làm thành những sence, trường đoạn liền mạch trong điện ảnh, với đủ cả cận, trung, viễn, toàn cảnh, traveling, lia, chúc, hất…

Ở đây có thể nghĩ tới khả năng tái tạo hình ảnh rất mạnh của tưởng tượng hồi tưởng Lưu Quang Vũ, nhưng cũng có thể cả quyết hơn, hay mạo hiểm hơn, đặt vấn đề điểm nhìn khách quan (như của máy quay phim) tự quan sát những gì xảy ra bên ngoài bản thân, nhưng lại bao gồm cả chính mình tham gia, như một nhân vật trong “phim”. (Nó tương tự câu chuyện xảy ra trong giấc mơ, nhưng khác ở chỗ người nằm mộng tách ra, quan sát câu chuyện của giấc mơ, chứ không phải đang bị giam trong đó). Thực tại nhiều chiều của Lưu Quang Vũ thường được hiển hiện, hoặc nhờ ánh sáng loá mắt, hoặc từ bóng tối bao trùm hiện dần các mảng khối, tương tự như thủ pháp hội hoạ của Rembrant

Những mái nhà lụp xụp/ những hàng cây đắm mình vào bóng tối/ chiều sương leo lét đèn dầu/ lũ trẻ ngồi quanh mâm gỗ/ lèo tèo mì luộc canh rau/ Mấy mươi năm vẫn mái tranh này/ dòng sông đen nước cạn/ tiếng loa đầu dốc lạnh/ tin chiến trận miền xa…

Nửa đêm tới thành phố lạ gặp mưa…

Có thể xem đó là thứ ánh sáng rất mạnh có sự tham gia của tiềm thức và vô thức, là lãnh địa bao hàm vùng ngoài ý thức, ý đồ cá nhân.

Còn tiếp…

————

Chú giải:

[1] Theo đạo diễn điện ảnh Đào Trọng Khánh (Đào Nguyễn, Nguyễn, một người bạn thân của Lưu Quang Vũ từ khi còn rất trẻ, cũng là người chia sẻ nhiều về sáng tạo với nhà thơ), sau khi có đường sắt lưu thông Bắc – Nam vào năm 1976, Lưu Quang Vũ và Xuân Quỳnh tìm kiếm được nhiều tư liệu từ các sách văn học và triết học mang khuynh hướng hiện đại – đương đại của miền Nam, và đây là nguồn ảnh hưởng chính đến tư duy văn học của hai người thời kỳ sau này. Từ 1975 trở về trước, Lưu Quang Vũ chủ yếu nhận được ảnh hưởng từ chủ nghĩa cổ điển.

[2] Sau năm 1975, Lưu Quang Vũ vẫn tiếp tục viết một số bài thơ, nhưng lúc này dòng thơ siêu thực – tượng trưng và khách thể hoá của thời kỳ 1970- 1975 không còn được tiếp nối, theo đánh giá của người viết bài này. Những thành công vang dội trên sân khấu kịch là một chiều kích biểu hiện khác của sáng tạo Lưu Quang Vũ, nhưng việc dòng tư duy thơ mới mẻ của ông bỗng nhiên bị cắt đứt, còn cần phải tìm hiểu nghiêm túc, kỹ lưỡng. Một bước chuyển quan trọng trong đời sống cá nhân liên quan đến kinh nghiệm và tư duy thơ, đó là việc Lưu Quang Vũ trở lại một đời sống bình ổn, cân bằng, trong sinh hoạt thông thường. Không thể khẳng định rằng đời sống bình ổn này đã dập tắt “những giấc mơ điên rồ, những ngọn lửa không có thật” trong tâm hồn ông, bởi vì tự sâu xa Lưu Quang Vũ chưa bao giờ là một người chấp nhận thứ trật tự thô bạo của cuộc đời vật chất. Việc “sống như mọi người” chỉ gợi ý cho ta nghĩ về việc Lưu Quang Vũ tìm đến một cách bộc lộ nào gần gũi với mức cảm thụ chung của mọi người mà thôi.

[3] Nguyệt cầm, bài thơ được cho là giàu yếu tố siêu thực – tượng trưng của Xuân Diệu:

Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh
Trăng thương trăng nhớ hỡi trăng ngần
Đàn buồn đàn lạnh ôi đàn chậm
Từng giọt rơi tàn như lệ ngân
… Đêm lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời
Đàn ghê như nước lạnh trời ơi
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận
Trăng nhớ Tầm Dương nhạc nhớ người

Hay Huy Cận sầu vũ trụ trong Tràng giang: Nắng xuống trời lên sâu chót vót/ sông dài trời rộng bến cô liêu

Chế Lan Viên về với thành Đồ Bàn non nước giống dân Hời, muôn ma Hời sờ soạng dắt nhau đi, lấy ra một khúc xương rợn trắng…

Tất cả vẫn chỉ dừng ở lối hình dung bị giới hạn bởi khuôn thước vật lý và không gian cảm giác theo trật tự lý tính thông thường.

[4] Những bài thơ cùng thời với thơ Lưu Quang Vũ:

  Đồi trung du phơ phất bóng thông già

  Trường sơ tán hồn trong chiều lộng gió

  Những trang sách suốt đời đi vẫn nhớ

  Như đám mây ngũ sắc ngủ trong đầu

  Lẵng quả thông trong suối nhạc nhiệm màu

  Hay Chuyến xe đêm thầm thì mê đắm

  Mùi cỏ dại trên cánh đồng xa thẳm

  Một bầu trời vĩnh viễn ướp hương hoa…

  ( Bằng Việt )

Hay Chẳng bao giờ anh ước đâu em/ một ngôi nhà bão dừng sau cánh cửa (Bằng Việt); chỉ là mơ mộng hay quyết liệt trong ranh giới kiểm soát của lý trí cũng như của những ẩn dụ sẵn có.

Cho đến những năm giữa thập kỷ 90 người ta vẫn còn viết kiểu Khối buồn đâu dễ nguôi ngoai/ hào khí bên ngoài yếm khí bên trong/ Tỉnh say một búi bong bong/ nào ai chia nửa cõi lòng Bolsa… (Nguyễn Duy)

Theo Khánh Phương – eVan

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *