Nguyễn Hòa (bìa trái) trong một buổi hội thảo của các nhà phê bình văn học

– Nhà PBLL Nguyễn Hòa : Mặc dù với người đọc thế là tốt rồi, nhưng tác giả vẫn không thoả mãn với chính bản thân mình. Họ muốn chứng tỏ bản thân có trí tuệ và khả năng sáng tạo hơn người chăng?

PV : Tôi không hiểu đến mức nào, họ mới có thể thoả mãn? Bởi theo tôi, thoả mãn là sự tự bằng lòng với những cái mình làm ra. Thoả mãn với sản phẩm “đạo” từ người khác thì có gì mà sung sướng?

– Nhà PBLL Nguyễn Hòa : Đó là một ca đặc biệt. Một ca không biết xấu hổ.

Trong trường hợp này không thể dùng tiêu chí của chính mình để quy chiếu vào thiên hạ. “Bách nhân bách tính” mà.

PV : Rõ ràng, với thế hệ những người gây dựng nền móng vàng cho khoa học Việt Nam như Giáo sư sử học Trần Văn Giàu, Giáo sư sử học Đào Duy Anh, Giáo sư triết học Trần Đức Thảo, Giáo sư Từ Chi… từ “đạo văn” hoàn toàn không có trong từ điển của họ. Hành vi “ăn cắp” là hành vi đáng xấu hổ, đặc biệt là “ăn cắp chữ”. Đấy là chưa kể đến những thế hệ trước đó, những “kẻ sĩ Bắc Hà” với bản tính tự tôn có phần gàn dở, thì liêm sỉ là quan trọng hơn cả tri thức. Theo anh, tại sao ở thế hệ này, chuyện đạo văn lại diễn ra nhan nhản như thế?

– Nhà PBLL Nguyễn Hòa : Tôi có một bài viết về PGS Phan Ngọc, tên bài là “PGS Phan Ngọc – nhà bách khoa cuối cùng của một thế hệ”. Nhan đề ấy đòi hỏi tôi phải làm hai việc : làm sao có thế hệ bách khoa và tại sao ông lại là người cuối cùng. Bài viết này không chỉ viết về Phan Ngọc, mà dụng ý của tôi rộng hơn, về một hiện tượng, về lớp tri thức Việt Nam sinh ra từ đầu thế kỷ XX. Đầu thế kỷ XX – thời kỳ manh nha của khoa học Việt Nam, có những người muốn tiến xa hơn. Họ muốn trả lời câu hỏi : Tại sao người phương Tây lại suy nghĩ như thế, tại sao ở phương Tây lại có các lý thuyết đó? Để trả lời, họ cần phải có một nền tảng kiến thức vừa rộng vừa sâu. Ngẫu nhiên, họ trở thành các nhà bách khoa. Tôi và bạn, chúng ta có thể biết được danh tính của Descartes, Lessing, Marx, Hegel… Nhưng có lẽ, chúng ta chỉ là những kẻ thuộc bài, chứ không phải là người hiểu biết về họ.

Cho nên, khi ông Phan Ngọc nói rằng, ông và ông Cao Xuân Hạo là hai người “thức nhận” là hoàn toàn có ý nghĩa riêng của nó. “Thức nhận” không phải là đảo ngược của nhận thức, như có tác giả trong cuốn “Thế giới nghệ thuật Tạ Duy Anh” bảo đó chỉ là trò chơi chữ.

Cuốn “Thế giới nghệ thuật Tạ Duy Anh” cũng buồn cười, tập hợp mấy cái luận văn đại học in thành sách, trong đó có hai khoá luận có ý tứ y hệt như nhau. Bảo khái niệm “thức nhận” chỉ là đảo ngược của khái niệm “nhận thức” thì chỉ có là người dốt mới nói thế! Ông Phan Ngọc nói có một cách ý thức hẳn hoi, vì ông ấy là một trong rất ít người Việt Nam biết xây dựng cho mình những khái niệm riêng để làm việc.

PV : Rất hiếm các GS, PGS ở Việt Nam có khái niệm riêng trong công việc nghiên cứu của mình? Vậy họ làm việc bằng công cụ gì?

– Nhà PBLL Nguyễn Hòa : Đó cũng là điều mà nhiều nhà khoa học ở Việt Nam rất yếu. Trong khi đó, việc xây dựng khái niệm lẽ ra phải là công việc đầu tiên của mọi nhà khoa học trong khi nghiên cứu. Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh là người rất nghiêm túc về thao tác này. Tôi chưa bao giờ học ông một giờ giảng, nhưng khi giao tiếp, tôi vẫn gọi ông là thầy.

Nhà khoa học phải xây dựng một hay các khái niệm để phản ánh chính xác nhất đối tượng mà anh ta nghiên cứu. Ví dụ : “thức nhận” không phải là sự nhận thức đơn thuần, vì ai mà chẳng nhận thức. “Thức nhận” nghĩa là suy nghĩ về sự suy nghĩ, tức là phải trả lời câu hỏi : Tại sao người ta suy nghĩ thế này mà không suy nghĩ thế kia? Điều gì quyết định việc người ta suy nghĩ như thế? Cụ thể hơn : Tại sao người Đức lại lạnh lùng và có thể xây dựng một nền triết học lớn? Tại sao phong cách người Pháp và văn chương của người Pháp lại lãng mạn?…

Để trả lời được các câu hỏi đó, nhà khoa học phải có tư duy tổng hợp, do đó mới cần tới bách khoa. Làm văn học cũng phải biết về triết học, đạo đức, ngôn ngữ, lịch sử, sân khấu, âm nhạc, hội họa, điện ảnh… của nền văn hoá đã sinh ra tác phẩm mà mà họ khảo sát… Nên làm phê bình ít nhiều cũng cần một tri thức bách khoa.

Nhưng về sau, do sự chuyên sâu của khoa học, khoa học ngày càng chia nhỏ ra, người nghiên cứu buộc phải chuyên sâu, nên đôi khi người ta chẳng cần đến nền tảng ấy nữa. Ví dụ trên báo Thiếu niên Tiền phong hồi tháng 9 : Giáo sư Lê Văn Lan dạy sử cho học sinh thế này : Nhân dân ta xưa vì kính trọng Lý Bí nên kiêng luôn chứ Bí, kiêng luôn cả việc gọi tên quả bí là quả bầu!

PV : Có lần tôi xem trên ti-vi, vị giáo sư trên c&oac
ute; nói : Lý Thường Kiệt là người họ Lý, vì thường xuyên “hào kiệt” nên mọi người tụng xung là Lý Thường Kiệt. Và kinh bang tế thế có nghĩa là người làm kinh tế. Giáo sư còn nhầm lẫn huống gì học sinh? Theo anh, nguyên nhân do đâu?

– Nhà PBLL Nguyễn Hòa : Do họ thiếu “phông” tri thức cơ bản. Làm nghề gì anh cũng phải có một cái “phông” tri thức cơ bản. Nếu không thì sẽ nói bừa!

Còn có một phần nữa là sự ham hố, háo danh. Ít nhiều cơ chế tuyển dụng người của chúng ta hiện nay đang có vấn đề. Tại sao anh cứ đòi hỏi người ta phải có học vị, học hàm? Háo danh làm cho người ta không biết tự xét đoán về mình, hoang tưởng về mình, như tôi đã viết về những chàng Narcisse thời hiện đại với Narcissisme – chủ nghĩa tự khen mình – chẳng hạn.

Quay trở lại với lý giải kia. Một mặt, người ta không cần chuyên sâu, một mặt, do cơ chế tuyển dụng người. Nhưng nên nhớ là những “đại gia” về khoa học xã hội ở Việt Nam trong thế kỷ XX hầu hết chỉ học đến tú tài, vài vị là cử nhân. Mà khi họ nghiên cứu cũng chẳng ai đầu tư cho họ. Đó là ý thức tự thân về công việc. Anh say mê là một chuyện, anh còn phải có ý thức về nó.

Nguyễn Hòa : " …Khó nói lắm. Công việc đẩy tôi đến những thứ như thế. Tôi biết nhiều nguồn tin về đạo văn. Tôi “ngửi mùi” nhanh lắm… "

PV : Nghĩa là sao?

– Nhà PBLL Nguyễn Hòa : Tôi nghĩ tình yêu với công việc chỉ là một mặt. Còn cần có ý thức tự thân để khi làm việc gì, tôi phải rốt ráo về nó. Như câu “cách vật trí tri” ấy. Đấy là điều Nho gia xưa kia rất tôn trọng, hiểu biết tận cùng, chứ không phải là biết vớ vẩn, nói linh tinh.

Khi có ý thức tự thân, người ta mới chịu trách nhiệm với công việc mà người ta làm. Nếu anh không có ý thức tự thân, thì sểnh ra là anh ta ăn cắp. Ăn cắp xong, anh ta chuồn. Thế thì vô liêm sỉ!

(Nguyễn Hòa lọc cọc giở cặp táp ra hai quyển luận văn thạc sĩ dày cộp màu đỏ chót).

Đây là hai bản luận văn thạc sĩ. Bản thứ nhất, giáo viên phản biện đã phát hiện ra nhiều lỗi ăn cắp và gạch đỏ chằng chịt vào các đoạn ăn cắp. Thế nhưng sau khi bị nhắc nhở, cô thạc sĩ tương lai làm bản thứ hai vẫn tiếp tục ăn cắp, vẫn có những đoạn chép rất dài. Tôi đã viết xong một bài về luận văn của cô thạc sĩ này, nhưng không công bố vì người hướng dẫn có quen tôi, ở khoa Văn – Đại học Sư phạm Hà Nội.

Nhưng thật sự thì tôi nghi ngờ cả người hướng dẫn, người chấm lẫn người phản biện. Đó có thể là cẩu thả, là vô trách nhiệm. Ví như tôi nhận hướng dẫn bạn một đề tài. Khi đã nhận hướng dẫn, thì chí ít, người thầy phải là bậc thầy về mảng đề tài đó. Nếu ông không là chuyên gia về lĩnh vực đó thì làm sao hướng dẫn được người khác? Ít ra, ông phải là người nắm được những điều cơ bản. Còn những phát hiện mới về đối tượng nghiên cứu thì hai thầy trò cùng làm.

Sự vô trách nhiệm là ở chỗ, nếu như học trò tìm được tài liệu in ở Sài Gòn trước năm 1975, hay của một bài báo nào đấy xuất bản đã quá xa so với thời điểm hiện tại để có thể khảo sát, mà thầy không biết thì còn có thể thông cảm. Đằng này ở NXB Giáo dục có bộ sách về tác giả – tác phẩm, trong đó in hầu như toàn bộ những gì mà người ta đã nghiên cứu về một tác giả nổi tiếng đến thời điểm ấy như Nguyễn Trãi, Trần Tế Xương, Thạch Lam, Vũ Trọng Phụng… Ít ra, người thầy hướng dẫn cũng phải có cuốn đó, đã đọc và đã biết. Thế nhưng, học trò ăn cắp từ ngay bộ sách kia mà thầy vẫn không biết thì không được. Chứng tỏ thầy chẳng đọc cái gì cả.

PV : Bản luận văn này chỉ là sản phẩm ăn cắp sơ cấp trong một rừng luận văn được tái tạo lại liên tục trong nhiều năm. Sách in ra đến với hàng vạn người còn ăn cắp, huống gì luận văn nghiên cứu khoa học. Dù sao, tôi vẫn có đôi chút tò mò : làm sao anh lại biết được luận văn thạc sĩ này là ăn cắp để “mò” đến, chưa kể anh còn có hai bản chưa sửa và bản đã sửa lại?

– Nhà PBLL Nguyễn Hòa : Khó nói lắm. Công việc đẩy tôi đến những thứ như thế. Tôi biết nhiều nguồn tin về đạo văn. Tôi “ngửi mùi” nhanh lắm. Khi biết một vài luận văn, luận án viết về tác giả, tác phẩm hay vấn đề nào đó mà tôi thấy tò mò là tôi tìm cách tiếp cận. Trường hợp này là tôi mượn hú họa, không theo một chủ đích nào cả. Thế mà cũng tìm ra chỗ ăn cắp. Nói chung, đó là sự vô trách nhiệm và lười nhác. Có những người vì việc tiến thân, làm qua loa rồi giấu đi thì đằng nào cũng khó nói, nhưng những người đạo văn xong mà tinh tướng, coi thiên hạ bằng nửa con mắt, ngộ nhận mình là nhà khoa học, thì tôi sẽ chỉ rõ họ là ai. Đấy là nguyên tắc tôi lựa chọn. Tôi không cho qua những trường hợp như thế. Nhất là các vị tinh tướng. Càng tinh tướng, tôi càng chú ý xem họ là ai.

Mà ai dám nói là mình mạnh. Mình có một chút kiến thức, nhưng chưa có gì đảm bảo là mình biết hết, hiểu hết. Thậm chí mình biết rất nhiều, nhưng chẳng hiểu cái gì. Một người thầy dạy tôi : có thể cậu biết rất nhiều, nhưng cậu nên cố gắng hiểu. Nhiều khi cố gắng hiểu không phải để làm một cái gì cả. Vả lại, muốn nắm được cái gì thì anh phải chiếm lĩnh được nó chứ! Kiến thức không chỉ để dùng trực tiếp, mà còn là nền tảng để làm việc khác. Tôi không phản biện kiến thức cao siêu của các vị giáo sư tiến sĩ, mà thường là chỉ phản biện những kiến thức cơ bản, phổ thông.

PV : Ví dụ?

– Nhà PBLL Nguyễn Hòa : Ví như có người phân tích bài “Cáo tật thị chúng” đã say sưa giảng giải “cáo” là gì, “tật” là gì, “thị” và “chúng” là gì. Trong khi đọc văn bản, họ lại không ngó vào cái dấu hoa thị (*), ở phía dưới có ghi chú : “Nhan đề do Lê Quý Đôn đặt”. Bài kệ đó khi viết làm gì có tên. Mấy thế kỷ sau, Lê Quý Đôn mới đặt tên cho nó. Hoặc là tiến sĩ Đoàn Hương nhận xét bài “Hưu hướng Như Lai” có cái tên như một công án. Vị này chắc là lại cũng không đọc dấu (*), ở dưới ghi chú : tên bài thơ do nhóm biên so
ạn đặt.
Có phải thiền sư Quảng Nghiêm đặt tên cho bài kệ đâu, nhóm người biên soạn thơ văn Lý – Trần thấy bài kệ không có tên, nên lấy một câu trong bài làm tên đấy chứ, công án công iếc gì. Mang cái danh giáo sư tiến sĩ mà xử lý văn bản như thế thì đáng ngại quá!

Bất kể ai đã hiểu Phật pháp đều hay, con đường đi lên Niết bàn có hai phương cách là tiệm ngộ và đốn ngộ. Tiệm ngộ là con đường tu nhân tích đức từ từ, còn đốn ngộ là trong khoảnh khắc bừng thoát ra khỏi “vô minh”, buông dao xuống là thành Phật. Vậy mà ông GS TS Trần Đình Sử trong một bài viết lại có ba lần nhắc tới “con đường đốn ngộ”. Đã “đốn ngộ” thì làm gì có con đường?
(Còn nữa)
Xuân Anh (Vietimes)

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *