Tôi đọc ông sớm, biết ông cũng sớm. Nhưng phải đến lần cùng vào phương Nam trong chuyến lưu giảng gồm các nhà văn, nhà lý luận, giảng viên đại học dạy cho giáo viên đồng bằng sông Cửu Long các mùa hè đầu những năm 2000, tôi mới có dịp được trò chuyện sâu cùng ông.
Tôi nhớ, chiều về ở khách sạn Chương Dương – Mỹ Tho, đoàn thường tản thành từng nhóm nhỏ, vừa đi dạo trong hoa viên trước sảnh vừa nói đủ thứ chuyện trên giời dưới biển. Một chiều, khi chỉ còn hai chúng tôi, chuyện vãn thành tâm tình, tôi mới nói nhận xét của mình. Đại ý rằng, tôi đã đọc ông hồi còn là học trò chuyên văn, từ cái Triết lý Truyện Kiều, có khi đó là cái đầu tay của ông cũng nên. Và sau đó, bất cứ cái gì ông viết, tôi đều đọc hết. Rằng, hồi ông còn dạy ở Nguyễn Du, tôi cũng đến nghe ké rất nhiều. Rằng, tôi đã cố hết sức để định danh cho mình Hoàng Ngọc Hiến là ai. Rằng, tôi thấy các danh xưng quen thuộc mà người ta vẫn dùng gọi ông : nhà lí luận văn học, nhà phê bình văn học, nhà nghiên cứu văn học… đều không hợp, không ra. Riêng tôi, tôi thấy dù văn học là điểm nhấn, nhưng hoạt động của ông chả bó riêng gì trong văn học, mà ra nhiều lĩnh vực khác nhau của văn hoá, và tôi luôn thấy cảm hứng bao trùm mọi cái viết của ông là triết học. Cái tạng ấy dường như đã được phát lộ ngay từ cái đầu tay đó. Vì thế, phải gọi ông là nhà triết luận mới đúng, mới đủ, chứ các danh xưng kiểu kia chả đâu vào đâu. Ông gật gù và chỉ nói “Có lẽ thế!”. Khi ấy tôi nghĩ : vẻ tán thưởng này chỉ là giao đãi để làm hài lòng người trò chuyện, chứ ông chả để tâm, chắc sẽ quên ngay thôi. Nào ngờ, mấy tuần sau, khi ra Hà Nội rồi, một hôm, ông gọi điện rủ tôi ra chơi. Cách tiếp trịnh trọng khiến tôi ngỡ ngàng. Ông bảo : Sau khi cậu nói, mình mới xem xét toàn bộ những gì mình viết và thấy cậu rất có lí, cậu đã giúp mình hiểu rõ mình hơn. Tôi quá bất ngờ. Làm sao ngờ được nhận xét của mình lại được một người như ông lưu tâm đến thế. Rồi ông rủ luôn đi ăn cháo vịt Vân Đình. Phải nói là tôi sướng rơn, cả hãnh diện nữa. Nhất là, chỉ ít lâu sau, ông cho xuất bản một cuốn sách, mà những khái niệm tôi trao đổi cùng ông đã được đặt làm nhan đề : Triết lí văn hoá và triết luận văn chương. Kể từ bấy, viết bất cứ bài gì, ông đều chuyển cho tôi qua đường mail. In cuốn sách nào, ông cũng dành cho tôi. Và tôi vẫn đọc ông chăm chỉ bằng tâm thế một học trò như thế. Sau cái lần làm xong Tuyển tập Nguyễn Đăng Mạnh, tôi tỏ ý muốn làm Tuyển tập Hoàng Ngọc Hiến. Thế là ông liền cung cấp cho tôi tất cả những tài liệu tôi cần. Đến nay, công việc đã hòm hòm, dù chưa xong hẳn.
***
Tôi nghĩ, hôm nay, ông trở thành người khởi xướng và đứng đầu giới nghiên cứu Minh triết Việt là một tất yếu. Cái xu hướng này dường như đã nằm sẵn đâu đó trong tố chất của ông. Tìm hiểu một tác giả nào đó, người ta thường ngược về quá khứ để tìm những mầm mống dự báo thiên hướng và tương lai của tác giả, đặng lí giải sự nghiệp ông ta. Khỏi phải nói là tôi cũng tuân theo lề lối ấy. Tôi đã được nghe kể về bệnh ham lí giải của cậu học trò Hiến. Gặp cái gì cũng muốn giải thích ngay, giải thích bằng được, dù chả phải lúc nào cũng thuyết phục. Cứ lí giải cốt để tư duy được khởi động, vận hành. Mà lí sự thì rặt bằng những phạm trù nọ, phạm trù kia, do vận dụng nhanh cũng có, do vừa lóe ra cũng có. Tôi cũng được biết thuở còn học trung học phổ thông, cuốn sách mà cậu học trò này ôm cả vào trong giấc mộng chính là cuốn Triết của trường dòng, mà trong đó, triết học còn bao gồm cả mỹ học, lô-gíc, đạo đức chứ chưa phân hoá chuyên ra như bây giờ. Và tất nhiên, cậu cũng chưa ý thức đầy đủ đó là Triết. Tôi cũng biết sau này, khi theo học đại học, không phải ngẫu nhiên mà trong các giáo sư thời bấy giờ, ông phục Trần Đức Thảo và Cao Xuân Huy hơn cả, dù có lúc chưa phải lắm với họ. Tư duy triết học của các bậc thầy này đã mê hoặc ông cũng như ảnh hưởng đến thiên hướng tư duy của ông không ít. Tiếc rằng, thời ấy, tư duy triết học ở ta không được khuyến khích lắm. Nếu khác đi, con đường học thuật của ông hẳn đã khác nhiều…
Nhưng, xem ra, cái mầm sau này mọc thành cây chính là nếp nghĩ theo triết học, sống theo khoa học kiểu riêng của ông. Tôi rất ấn tượng về câu chuyện của ông Lâm, một bác sĩ kì cựu, từng được học Hoàng Ngọc Hiến những ngày tò te làm cậu giáo giữa đám trò quê. Chuyện rất vui. Thuở ấy, tụi họ tuổi đều sêm sêm, cả học lẫn chơi đều chung chạ tất. Có lần cùng nhau tắm truồng, đang tồng ngồng từ dưới sông lên thì gặp một toán phụ nữ. Cả đám học trò đều vội lấy tay che phần dưới, dúi dụi vào nhau, bước không nổi. Chỉ riêng cậu giáo Hiến thì lấy hai tay che mặt và bước rất thản nhiên. Cả bọn lạ lắm. Hỏi, thì cậu giáo trẻ bảo : cái dưới thì ai chả giống ai, nhìn nó làm sao nhận ra đứa nào, chỉ có cái mặt mới khác nhau thôi, bị lộ mặt thì mới lộ mình… Ồ ra thế, cả bọn lại ngớ ra. Cái pha ngộ nghĩnh thời cận thành niên ấy mách bảo tôi một điều nghiêm túc : Biết đâu từ cái triết lí “truổng cời” đó, Hoàng Ngọc Hiến đã là nhà minh triết rồi.
Ai đã tiếp xúc với ông chắc sẽ ấn tượng ngay về một thói quen kì kì. Đó là giới thiệu những trải nghiệm về sức khoẻ và thuốc thang của mình một cách rất khoa học và… li kì. Thường những cuộc như thế đều y như một bài thuyết trình công phu và tâm huyết. Tôi đã được biết về tính năng nhiều thứ thuốc từ ông. Cái lần ông quảng bá cho hoạt huyết dưỡng não là thế. Ông kể rất đinh ninh : Có một dược sĩ cao cấp của ta nổi tiếng về các công trình nghiên cứu nhân sâm đã được Hội những người nghiên cứu nhân sâm quốc tế mời tham gia một dự án lớn. Họ đã đem tất cả những loại sâm thượng thặng như nhân sâm Trung Quốc, Triều Tiên, nhân sâm Xi-bê-ri… đến để nghiên cứu.
Còn nhà dược sĩ ta thì đem theo củ đinh lăng. Họ cùng nhau làm một thí nghiệm, đó là cho chuột bạch ăn, mỗi con ăn một thứ trong cùng một khoảng thời gian. Đến kì hạn, họ quẳng tất lũ chuột xuống bể nước và quan sát. Kết quả là : tất cả những con ăn các loại sâm khác cứ dần dần theo nhau chìm hết. Duy có một con vẫn chống chọi, cầm cự, hàng tiếng đồng hồ sau nữa mới chịu chìm. Cậu biết con nào không, thật bất ngờ, đó là con ăn đinh lăng. Rồi hăng hái : Hiện nay, đinh lăng là một bí mật, một dược liệu chiến lược của ta. Hoạt huyết dưỡng não được chế từ đinh lăng theo một công thức bí truyền. Vô cùng hiệu quả. Cậu nên dùng, nên dùng. Còn ông thì nghiện hẳn rồi. Tôi chắc, nếu chỉ đọc nhãn thuốc không thôi, ông chả mê thế đâu, dù nó hay ho đi nữa. Ông bị cám dỗ chỉ bởi cái thí nghiệm rất chi là khoa học kia thôi. Phần mình, tất nhiên là tôi bị đánh gục và bắt đầu xài luôn từ trưa hôm ấy.
Thế mà có lần, đang ở khách sạn Sóc Trăng, ông gọi lễ tân mang cho một chai nước. Cô phục vụ mang lên thì thấy một ông già trên giường, đầu cắm xuống gối, chân chổng ngược lên trần nhà, mặt đỏ gay, tay lẩy bẩy làm giá chống đỡ thân mình, cặp giò lúc nghiêng phải, lúc ngoẹo trái, cứ chực đổ. Cô ta hoảng quá, chẳng hiểu ra làm sao. Còn ông, cứ nguyên tư thế ấy mà ra hiệu đặt nước lên kệ, ra hiệu cám ơn, ra hiệu tạm biệt. Mặt rất căng thẳng. Té ra, ông trồng cây chuối. Một bài tập cho máu dốc lên não. Ô hay, đã có hoạt huyết rồi mà. Bài tập dồn huyết này muốn phủ định bài thuốc hoạt huyết kia chăng? Đâu có. Cái này đâu phủ định cái kia. Quan hệ của chúng là cộng sinh. Nhà triết luận của chúng ta hoàn toàn tin thế.
Người ta vẫn kháo rằng, đằng sau người chồng thành công bao giờ cũng có bóng dáng một người phụ nữ. Tôi cũng nghĩ thế. Và tin rằng : Hoàng Ngọc Hiến đi vào triết, chắc chắn là nhờ cả công… vợ. Bà Tố Nga là một phụ nữ thật đặc biệt. Bà có cái thú rất nổi tiếng là “nói xấu chồng”. Hễ có khách đến, bà thường ra tiếp trước. Và, trong lúc đợi ông xuống, thể nào bà cũng tố với khách đủ cái “ngu dại” của chồng, chì chiết say sưa, giọng thì đầy hứng khởi, lời lẽ thì đến là đáo để, gai góc. Thế nhưng, ai lại vào hùa với bà để kể xấu ông thật, thì bà tống ra cửa ngay lập tức. Lần sau thì đừng có mà vác mặt đến. Thì ra, “tố Hiến” là một cái thú lạ, là tiết mục độc quyền của “tố Nga”. Ấy là cách yêu chồng độc nhất vô nhị của bà. Người hiểu thì thấy rất thú vị, và chả dại gì mà chêm vào hay xía vào. Vì thế, lần nào đến chơi, nghe chuyện bà, tôi cũng thầm nhớ đến cái câu chuyện cổ Hy Lạp ấy. Chuyện một cậu học trò định lấy vợ đã đến xin thầy mình là nhà hiền triết một lời khuyên. Nhà hiền triết đã khuyên rằng : Con cứ kết hôn đi, đằng nào thì con cũng được. Nếu được vợ hiền, con sẽ là người hạnh phúc; còn gặp phải vợ dữ thì con sẽ thành… một nhà triết học!
***
Một người có “máu” triết học thì tất phải có một thái độ triết học trong đời sống. Thiếu điều này, triết nhân sẽ chỉ là một thường nhân thôi. Là một học giả có cỡ, được không ít nơi trên thế giới biết đến, nhưng đến nay, nhiều người vẫn cứ băn khoăn vì sao ông Hiến không có những học hàm như Giáo sư, danh vị như Nhà giáo Nhân dân giống bao nhiêu vị khác. Ông chỉ có một hàm vị duy nhất là Tiến sĩ. Thực ra là Phó Tiến sĩ. Bảo vệ ở Nga hồi còn Liên Xô. Mà thấy ông chả có vẻ sốt ruột hay bất mãn gì. Lúc nào, ông cũng thản nhiên. Dù quanh ông, người ta cứ nhao lên, nhộn nhạo lên với những danh này vị nọ. Lạ. Giữa cái thời chủ nghĩa duy lợi lên ngôi, thói cầu danh áp đảo thế này, sống được thế, tất ông phải có một quan niệm, một triết lí sống độc đáo nào đó? Đoán vậy, có lần tôi đã hỏi. Thì ông cũng chả giấu diếm gì : Điều mình tâm đắc và lấy làm phương châm sống suốt đời là ý tưởng ở câu cuối cùng trong Đạo đức kinh của Lão Tử : Thánh nhân chi đạo vi nhi bất tranh. Đạo của thánh nhân là làm mà không tranh giành với ai. Ngẫm ra, tôi thấy ông đã sống trong đời đúng như vậy, không riêng gì thái độ đối với danh vị.
Chân dung Thầy Hoàng Ngọc Hiến |
Nhưng quả là cuộc đời này vẫn có những công bằng riêng của nó. Nó vẫn luôn biết ai là ai.Lần vị Hiệu trưởng Trường Nguyễn Du là Huỳnh Khái Vinh được phong học hàm Giáo sư đã diễn ra một việc thú vị. Đám học viên Nguyễn Du hồi ấy toàn những cây bút, những nhà văn đã thành danh cả. Họ đã chuẩn bị sẵn hai bó hoa để chúc mừng. Khi lễ mừng tặng diễn ra, họ đã mời cả Huỳnh Khái Vinh và Hoàng Ngọc Hiến cùng lên sân khấu. Người đại diện tặng hoa cho thầy Vinh trước với lời chúc mừng : “Đây là vị Giáo sư do Nhà nước phong!”. Rồi quay sang tặng hoa và ôm hôn thầy Hiến thật hoan hỉ : “Đây là vị Giáo sư do Nhân dân phong!”. Cả hội trường vỗ tay ầm ĩ. Thầy Vinh ôm hôn thầy Hiến đầy phấn khích. Còn thầy Hiến, sau một phút ngỡ ngàng, vẻ vẫn rất thản nhiên. Lạ hơn, bây giờ trên các phương tiện truyền thông đại chúng, mỗi khi giới thiệu ông, bao giờ người ta cũng cứ kèm danh vị Giáo sư. Người xem chẳng ai ngạc nhiên. Còn ông thì vẫn thản nhiên.
Tôi cứ nghĩ ông là người thờ ơ, hoàn toàn không để ý gì đến những chuyện ồn ào vặt. Nhưng không hẳn. Một lần đang trò chuyện vui vẻ, mặt ông bỗng đỏ gay, lời lẽ hết sức bức xúc, chỉ vì nhớ ra hôm qua xem ti-vi, bắt gặp Nguyễn Đình Thi trên hình. Tôi chắc, trong cảnh đó, Nguyễn Đình Thi đã nói một điều gì đó đại loại như cao giọng quá đà trước anh em hay hạ giọng quá mức trước bề trên chăng. Nghe ông kể, thì không phải. Té ra, chỉ bởi Nguyễn Đình Thi đã đi đi lại lại bên hồ Gươm, rồi làm bộ làm tịch đang suy tư xa xăm cho camera ghi hình, thế thôi. Vậy mà, ông thất vọng không thể chịu nổi : Vì sao một người như Nguyễn Đình Thi mà lại đi diễn trò, một thứ trò vớ vẩn như thế. Tôi còn nhớ, không kiềm được phản ứng của mình, ông đã văng tục ra nữa. Cứ như vừa bị mất một cái gì rất lớn. Thoạt tiên, tôi rất buồn cười, vì thấy phản ứng của ông có vẻ thái quá. Trò diễn ấy cho qua được mà. Ngẫm lại, thì hiểu ông hơn. Là người chân thật đến… kì cục, ông ghét cay ghét đắng thói diễn. Bậc cao nhân lại càng không nên diễn. Thì ra, ông luôn có một nguyên tắc sống, một quan niệm về giá trị sống nào đó, chứ đâu phải ơ hờ.
CHU VĂN SƠN – Theo phongdiep.net