Bản chất của con người là vận động, không ngừng vượt lên trên giới hạn của chính nó. Nhưng, như IU.M.Lotman quan niệm, khi anh đi trên con đường này, đồng thời anh đã đánh mất những con đường khác. Bị đóng khung trong những giới hạn, con người luôn khao khát vượt qua. Nhưng con người là một thực thể phức tạp, đầy bí ẩn. Mỗi người lại ở trong những giới hạn khác nhau, nên khao khát của họ rất khác nhau. Con đường vươn tới sự hoàn hảo của mỗi người, bởi vậy, không giống ai. Vì thế mà con người cô đơn.

Cô đơn là một trạng thái bi kịch, là nỗi đau tinh thần lớn nhất của con người. Nguyễn Ngọc Tư viết : “Ngày ngày kẹt giữa đám đông, chen chúc trên những con đường đông nghịt người, nhiều khi tôi giật mình, trời ơi, họ kia, đồng loại mình kia, sao mình lại cô đơn đến rã rời… ”

Tác phẩm "Cánh đồng bất tận" của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư

Nguyễn Ngọc Tư quan niệm sâu sắc về điều đó khi xây dựng motip người nghệ sĩ cô đơn. Phẩm chất nổi bật của người nghệ sĩ là nhạy cảm và tha thiết với Cái Đẹp. Bởi vậy, họ dễ trở nên lạc lõng giữa đời thường. Người đời sẽ rất khó hiểu, khó đồng cảm và lí giải được vì sao chàng công tử Bạc Liêu (Cuối mùa nhan sắc) lại từ bỏ cuộc sống “no đủ, giàu sang, không phải làm gì, cả nhà chiều chuộng" để đi theo một gánh hát "lụi hụi kéo màn, dựng cảnh, ăn cơm quán, ngủ sàn diễn”. Càng thấy khó tin, thậm chí muốn lên án những người mẹ như đào Hồng “vì mê hát (…) mà gửi con cho người ta, đến nước nó không thèm nhìn mình nữa”, như Diệu (Làm má đâu có dễ) xa lìa cả đứa con còn đỏ hỏn để được diễn vai mà chị đã chờ đợi từ lâu. Chảy trong dòng máu của những người nghệ sĩ là khao khát được cống hiến. Nhưng đồng thời, họ cũng là những người nhiều ảo tưởng, về thế giới, về bản thân mình. Họ đem Cái Đẹp đến giữa cõi đời dung tục, đặt sự mơ mộng giữa những toan tính lạnh lùng, muốn cho cuộc đời tràn đầy tiếng hát và cuộc sống thì như trên sân khấu. Và họ thất bại. Những thất bại người đời thấy tất yếu, nhưng với họ thật khó mà san sẻ. Câu mà một nhân vật nghệ sĩ của Nguyễn Ngọc Tư thường nói là : “Tụi bây thì biết gì”.

Đó là những nghệ sĩ đơn độc trong hành trình đi tìm Cái Đẹp. Họ ý thức và chấp nhận điều đó. Bản lĩnh và tình yêu nghề của họ thể hiện rõ nét ở đây. Trong nỗi đau của sự cô độc này, còn có cả niềm kiêu hãnh.

Nhưng có nỗi cô độc khác, lớn hơn, không chỉ với những người nghệ sĩ, đó là nỗi cô đơn giữa “biển người mênh mông”. Sống giữa những người thân yêu, sống với người mình hết lòng mà vẫn cô đơn. Đây là nỗi đau lớn của kiếp người. Đọc Dòng nhớ, chúng ta không thể không bị ám ảnh bởi cảnh “ba tôi chống cây gậy khật khừng lang thang xuống bến (…) ông già tha thiết nhìn ra sông. Chỉ vậy thôi rồi khật khừng quay lên, cái chân trái yếu ớt như tựa hẳn vô cây gậy, cứ mỗi lần chân bước, đầu gậy lại xoáy sâu vô đất một lỗ tròn”. Cái lỗ sâu ấy xoáy vào lòng ông, xoáy vào lòng người đọc nỗi cô đơn khủng khiếp của kiếp người. Và “cả nhà ngồi lặng lẽ dòm, ai cũng nghe đau đau xót xót như ai lấy cật tre cứa tới cứa lui trong lòng. Bởi cái lúc này là lúc sum họp đây, vậy mà sao vẫn thấy thiếu một người, mà thiếu đúng cái người đang lững thững đi dưới nắng kia mới chết”. Ông Mười (Mối tình năm cũ) “cả đời, chỉ mong người nhà hiểu mình chứ trông gì người thiên hạ”. Ông Tư Nhớ (Đau gì như thể…) đau đớn bởi “Tiếng kêu nghe thấu tới trời, sao đồng loại con người không học cách hiểu nhau”. Ông già Chín Vũ (Cuối mùa nhan sắc) thì than “Mình sống làm gì tới từng này tuổi mà không hiểu được nhau, Hồng ơi là Hồng”. Không hiểu được nhau, không hiểu đúng về nhau, bởi vậy mà khó chia sẻ được nỗi niềm của nhau. Ông Mười không ghen tuông, không ác ý khi đốt thư Nguyễn Thọ gửi dì Thấm. Ông đốt bởi vì “Ông thương vợ, cứ nhớ hoài vầy thì đời được mấy ngày vui (…) Chỉ còn cách đó mới tìm lại nụ cười nhẹ nhõm đậu trên khuôn mặt nhẹ nhõm vô tư lự như những ngày dì Thấm mới mười tám, hai mươi”. Không ai hiểu đúng điều đó. Bởi vậy, không ai có thể xẻ chia nỗi oan ông gánh trong lòng. Không ai có thể xẻ chia cùng Xuyến (Duyên phận so le), cùng Hậu (Một trái tim khô), cùng Út Nhỏ (Nhà cổ)… bởi những nỗi niềm trong họ đâu dễ nói ra. Mà khi nói ra, biết đâu, lại làm tổn thương cho ai đó. Vậy là họ âm thầm chịu đựng, âm thầm chấp nhận sự cô đơn. Cô đơn là điều kiện thử thách phẩm chất làm người của họ.

Có lúc, truyện của Nguyễn Ngọc Tư còn sắp xếp những thân phận cô đơn bên cạnh nhau. Nhưng không phải như thế giới nhân vật của Phạm Thị Hoài, cô đơn kiểu người sống cạnh nhau mà “như cây mọc bên tường”, đối thoại mà như độc thoại, con người cạn dần khả năng yêu thương. Nhân vật của Ngọc Tư cô đơn bởi mỗi người ẩn chứa một số phận, sở hữu một tâm tư, mang nặng một trắc ẩn. Họ yêu thương và thông cảm cho nhau. Nhưng không thể xẻ chia. Mà xẻ chia cũng không hết. Đó là những người sống nơi cuối trời heo hút (Duyên phận so le), tất thảy đều “thèm người”, đều thấy mình “giống khỉ”, mỗi mùa gió chướng, “cả bọn lặng lẽ ngồi, nghe gió thốc qua lòng, rúm ró nỗi cô đơn”. Đọc “Dòng nhớ”, chúng ta bị ám ảnh bởi cảnh “Đêm đêm cả nhà đi ngủ, ba tôi ngồi hút thuốc trên bộ vạt kê trước nhà, chống
rèm lên, ngó ra sông. Kiểu ngồi một chân xếp bằng, chân kia dựng lên, rồi tì cái tay cầm điếu thuốc lên cái đầu gối, đêm này qua đêm khác, kiểu ngồi không đổi”.
Đó là khối cô đơn đặc quánh thao thức trong đêm, hoà cùng bóng đêm. Nhưng chưa hết, trong đêm, vẫn còn có hai người đàn bà, một “ngồi trong mùng lặng lẽ nhìn ba”, một “lặng lẽ neo lại ngoài bến nhà tôi, treo ngọn đèn chong lên cây đước chơm chởm những cái nhánh non”. Ba tôi thở dài. Má tôi thở dài. Và người phụ nữ chong đèn ngoài kia hẳn cũng nén tiếng thở dài. Hay như ba cha con trong “Cánh đồng bất tận”. Ăn ở cùng nhau trên thuyền, lênh đênh cùng nhau trên những cánh đồng, dòng sông. Nhưng mỗi cá nhân họ là một thế giới. Họ hiểu những nỗi niềm của nhau, nhưng không thể san vợi cho nhau. Nương hiểu tình yêu người cha dành cho mẹ, hiểu sự hận thù ông trút lên những người đàn bà khác, hiểu những ẩn ức tình dục mà Điền phải chịu. Nhưng bất lực. Họ nhìn nỗi cô đơn giày xéo tâm hồn nhau. Thì ra, nỗi cô đơn của họ không chỉ là sự cô độc do hoàn cảnh sống đem lại. Bởi vậy mà nỗi đau lớn hơn rất nhiều.

Chúng ta bắt gặp trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư những nhân vật suốt đời đi tìm, một hành trình vô vọng và đơn độc. Ông Sáu (Biển người mênh mông) “đã đi tìm gần bốn mươi năm, dời nhà cả thảy ba mươi ba bận, lội gần rã cặp giò rồi mà vẫn chưa thấy”. Nhân vật “má tôi” trong “Dòng nhớ” suốt mười mấy năm, tìm người vợ cũ của chồng, “Tới bây giờ má tôi vấn chưa tìm được dì. Tôi hỏi má tìm làm gì, má tôi nói để cho hai người gặp lại, coi thần trí ba mầy có đỡ hơn không. Bây giờ thì ba tôi cũng nằm xuống (…) má tôi vẫn không ngừng tìm kiếm dì”. Ông Năm Nhỏ (Cải ơi!) tìm suốt mười hai năm chưa thấy con. Chúng ta bị ám ảnh bởi một ông già trước mỗi buổi diễn, mượn micro nói mấy câu : “Cải ơi, ba là Năm Nhỏ nè con…”. Tiếng gọi “Cải ơi!” của ông mắc lại trong người đọc, như món nợ lòng.

Càng tìm kiếm càng vô vọng. Càng vô vọng lại càng khao khát kiếm tìm. Họ đơn độc và tự nguyện đơn độc. Họ không chối bỏ, không tìm lối thoát cho thực trạng cô đơn. Cô đơn trở thành một giá trị, là ý nghĩa đích thực cuộc sống của họ.

Cũng đề cập đến nỗi cô đơn của con người nhưng chúng tôi nhận thấy quan niệm của Nguyễn Ngọc Tư rất khác. Cô đơn luôn là nỗi đau, là bi kịch tinh thần lớn nhất của con người. Nhưng đọc Nguyễn Ngọc Tư, chúng ta cảm nhận rất rõ niềm cô đơn mà không thấy sự bi quan tuyệt vọng. Nhân vật của chị tự ý thức về sự cô đơn. Họ chấp nhận bởi họ tìm thấy trong nỗi đau ấy một lẽ sống. Và, từ trong nỗi đau ấy, họ vươn lên, làm người. Cô đơn trong quan niệm của Nguyễn Ngọc Tư là động lực của cái Đẹp, cái Thiện.

Phạm Thái Lê – VNQĐ

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *