Nhà văn Nga Mikhain Alêchxandrôvich Sôlôkhôp (1905-1984)

Cho đến nay, người ta vẫn còn ngạc nhiên về sự xuất hiện của “bộ anh hùng ca bi thảm” Sông Đông êm đềm của Sôlôkhốp – “con đại bàng non bất thần vẫy lên đôi cánh mênh mông”.

Mikhain Alêchxandrôvich Sôlôkhôp (1905-1984) thuộc nhóm không nhiều những nhà văn mà khi nhắc đến, người ta không cần nói nhiều hay không nói về những phẩm chất thiết yếu của một ngòi bút bậc thầy như tình yêu văn chương, sự trau dồi nghề nghiệp, say mê và nỗ lực lao động, tinh thần vượt khó…

Thoạt nhìn, ông là người ít học, nhất là về nghề văn. Sau bốn năm cấp một ở trường làng, ông tham gia nội chiến, với đủ công việc như liên lạc, vận tải. Nội chiến kết thúc, ông lên Matxcơva năm 1922. Tại đây, ông kiếm sống bằng việc chuyển thuê hàng trên những cung đường không xa và lao động phổ thông.

Những truyện ngắn đầu tiên của ông được đăng trên một số báo và tạp chí thủ đô, ngay năm 1923. Không lâu sau, những truyện ấy được xuất bản thành hai tập Truyện sông Đông Đồng cỏ xanh lam (1926).

Sông Đông

Trước khi hai tập này ra đời, ông đã về làng quê Véchenskaia và quyết định sống vĩnh viễn ở làng. Chính tại miền quê sông Đông, ông vừa sống cuộc đời lam lũ bình thường như bao người dân cô dắc, vừa bắt tay viết (từ 1925) bộ tiểu thuyết vĩ đại Sông Đông êm đềm (1928-1940), gồm 4 tập.

Cho đến nay, người ta vẫn còn ngạc nhiên về sự xuất hiện của “bộ anh hùng ca bi thảm” ấy và của Sôlôkhốp – “con đại bàng non bất thần vẫy lên đôi cánh mênh mông”.

Căn cứ vào số đầu sách, nhà văn Xô viết này viết quả rất ít, ấn tượng những tác phẩm về sau cũng không sâu và không bền, trừ "Số phận một con người" (1956-1957). Bộ tiểu thuyết thứ hai của Sôlôkhôp là Đất vỡ hoang, gồm hai tập, dung lượng chỉ bằng nửa Sông Đông êm đềm.

Tập I ra mắt công chúng năm 1931. Nhưng tập II mãi năm 1959 mới xuất hiện, và được tặng Giải Lênin năm 1960. Cũng năm 1959, Sôlôkhôp bắt đầu bộ tiểu thuyết thứ ba – Họ chiến đấu vì Tổ quốc, song thỉnh thoảng mới in “trích đoạn”, gần như bỏ lửng nó suốt hai mươi năm, để nó trở thành một “quyển truyện dở dang”.

Trong lúc "Họ chiến đấu vì Tổ quốc" "Đất vỡ hoang" mất dần độc giả, "Số phận một con người" lại mỗi lúc một thượng phong. Gần đây, truyện ngắn này được đưa vào giảng dạy ở nhà trường như một tác phẩm kinh điển.

Đúng thôi, nó mới là cái tạng của Sôlôkhôp. Nó phát ngôn thật hùng hồn cho hàng triệu người lính và dân thường trên khắp hành tinh đã ngã gục hay chịu tổn thương, mất mát trong chiến tranh, những trái tim thực sự cao thượng mà không tội ác hay sự tàn bạo nào khuất phục được.

Nó như một bổ sung cần thiết cho "Sông Đông êm đềm", mà nhân vật trung tâm là nhân dân lao động, hiện thân qua chàng trai cô dắc Grigori. Thân phận Grigori chỉ lộ ra trong cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn. Chàng mang lại bất hạnh cho những người yêu thương mình nhất. Chàng ngả nghiêng giữa Hồng quân và Bạch quân. Cuối cùng, chàng đơn độc và mất hết, mà vẫn chưa chọn được đường đi. Môi trường sống cho mình như vậy vẫn là một dấu hỏi mà chàng buộc phải có lời đáp.

Thời gian cho thấy sự đúng đắn của cảm nhận lịch sử ấy, cảm nhận đang rất thời sự hiện nay. Đây là điểm khác và mới cơ bản của "Sông Đông êm đềm" so với "Chiến tranh và hoà bình". Đương nhiên, giá không có "Những người khốn khổ" hay "Chiến tranh và hòa bình", rất có thể không có "Sông Đông êm đềm".

Một trong số những ấn bản của tác phẩm Sông Đông êm đềm

Cũng như Liev Tolstoi, Sôlôkhôp chú ý đến tác động của xã hội, của lịch sử, của cộng đồng lên cá nhân, cũng rất điêu luyện trong việc thể hiện đan xen các sự kiện xã hội, chính trị hay quân sự cấp quốc gia, với các biến cố gia đình hay cộng đồng, trong sự chăm chút từ các bức tranh toàn cảnh đến số phận một cá nhân, từ một trận đánh khốc liệt đến cuộc sống nơi đồng quê, từ một cuộc đụng độ xóm giềng đổ máu đến một cảnh yêu đương trong rừng…

Nếu Tolstoi cố gắng đưa vào tác phẩm đời sống của tầng lớp quý tộc càng nhiều càng hay, thì Sôlôkhôp cũng làm như vậy đối với đời sống nhân dân lao động, với các thành phần và kiểu người khác nhau, với các cảnh sinh hoạt và lao động thường nhật, với các cuộc họp, ngày lễ, tiệc cưới, đêm vũ…

Sôlôkhôp không bỏ qua những gì tạo nên đặc sắc của quê hương ông, như câu cá trên sông Đông. Đặc biệt, ông cài vào chuyện rất nhiều dân ca, tục ngữ. Đây cũng là một nét rất mới so với Chiến tranh và hòa bình. Chất bi kịch của Sông Đông êm đềm cũng đậm hơn. Như Tolstoi, Sôlôkhôp đạt đến đỉnh cao của mọi lĩnh vực, với tư cách một họa sỹ phong cảnh, một nhà tâm lý học, một nhà xã hội học, một người am tường đời sống dân cô dắc, am tường phong tục và văn học dân gian của họ, hơn nữa, một nhà sử học và một triết gia.

Những tưởng với "Chiến tranh và hòa bình", một báu vật của nước Nga, một kiệt tác hàng đầu của thế giới, thể loại anh hùng ca vĩnh viễn lui vào bảo tàng. Hoá ra, "Sông Đông êm đềm" mở ra một kỷ nguyên mới cho nó.

Bằng chứng là nhiều nhà văn ở khắp nơi vẫn đang nỗ lực xây dựng những công trình tương tự. Đơn giản là vì ý nguyện ôm trùm càng sâu rộng hiện thực càng tốt của văn chương vẫn tồn tại. Có điều, những công trình bách khoa toàn thư như vậy đòi hỏi những kiến thức, những cố gắng, những tâm huyết khổng lồ.

Một khác biệt đáng buồn giữa hai bộ tiểu thuyết cần được ghi nhận. Đó là số phận long đong của "Sông Đông êm đềm". Chật vật lắm, Sôlôkhôp mới công bố được tác phẩm. Khi tập I ra mắt, không ít nhà phê bình chê bai thậm tệ, yêu cầu tác giả cắt bỏ nhiều đoạn. Nếu nghe theo họ, Sôlôkhôp chỉ còn giữ lại một phần năm tập truyện.

May mắn là một số nhà văn danh tiếng như Gorki hay Séraphémovitch, tác giả Suối thép, cương quyết bênh vực nhà văn trẻ tài năng. Đáng ngạc nhiên hơn, J.Staline (1879-1953) công khai khen ngợi "Sông Đông êm đềm" và bảo vệ Sôlôkhốp.

Hơn thế, ngay từ đấy đã lan truyền dai dẳng mối nghi ngờ về việc Sôlôkhốp ăn cắp văn. Nhiều người cho rằng, "Sông Đông êm đềm" là của nhà văn đồng hương của Sôlôkhôp, cựu sỹ quan bạch vệ Fioudor Krioukov (1870-1920). Ông này không muốn in ấn bất kỳ thứ gì dưới chính quyền Xô viết. Sôlôkhôp tìm được bản thảo "Sông Đông êm đềm" và đem xuất bản dưới tên mình.

Sau nhiều bài báo lên án vô bằng cớ Sôlôkhôp, năm1974, văn hào Nga Soljenitsyne, Nobel Văn học 1970, tài trợ và giám sát việc cho ra đời một tập “lật tẩy” Sôlôkhốp của một nhà phê bình vô danh đã quá cố, tên D.

Theo D, Sôlôkhốp chỉ bổ sung được 5% ở các tập I và II, và 30% ở các tập III và IV của bộ truyện của Krioukov. Rồi năm 1975, xuất hiện ở Paris cuốn "Ai đã viết Sông Đông êm đềm?" của Ray Medvedev. Song, tất cả chỉ là giả thiết và suy diễn.

Kỳ cục hơn nữa, trong một bộ bách khoa toàn thư cô đúc in bằng tiếng Pháp năm 2000, một học giả ghi rằng “nó (Sông Đông êm đềm) được chính quyền Liên xô đặt hàng để làm mẫu cho chủ nghĩa hiện thực xã hội nghĩa”.

Thực tế, nó bị phê phán gay gắt, chính ở chỗ nó vi phạm những nguyên tắc của chủ nghĩa này. Tại sao người ta cố tình lờ đi sự thật là ngay khi hai tập truyện ngắn Truyện sông Đông Đồng cỏ xanh lam chào đời, công chúng và giới phê bình đều nhận thấy một tài năng không thể phủ nhận với khiếu quan sát tinh tường và nghệ thuật xây dựng hình tượng sắc sảo, qua đó, hiện thực được phản chiếu sinh động và chuẩn xác trên tấm gương cuộc đấu tranh giai cấp ác liệt.

Đi sâu tìm hiểu, các chuyên gia chân chính phát hiện rằng, cội nguồn của việc cố tình chối bỏ thiên tài và cống hiến của Sôlôkhôp là tệ phân biệt đẳng cấp và chủng tộc từng giáng lên đầu Alexandre Dumas (1802-1870). Mẹ Sôlôkhôp mù chữ, tổ tiên ông là nông nô.

Xin lưu ý thêm, "Sông Đông êm đềm" qua nhiều bản dịch mang lại cho Sôlôkhôp rất nhiều. Ông là nhà văn duy nhất ở Nga có máy bay v&agrave
; sân bay riêng.

Sau đại chiến II, ông càng nổi tiếng và thường đăng đàn ở các Đại hội Đảng và Đại hội Nhà văn Liên xô. Tại đó, ông mạnh mẽ lên án “chủ nghĩa tư bản phương Tây thối nát” và bày tỏ niềm tin sắt son vào chủ nghĩa cộng sản, với câu nói bất hủ thường được dẫn ra : “Tôi chỉ viết theo chỉ thị của trái tim mình, nhưng trái tim tôi lại thuộc về Đảng thân yêu mà tôi nguyện suốt đời phụng sự”.

Dù vậy, bất chấp quan điểm chính trị của ông, bất chấp vụ bê bối “bản quyền” nói trên, ông vẫn được Viện Hàn lâm Thụy điển tặng Nobel Văn chương năm 1965. Trong năm người Nga được hưởng vinh dự này cho đến nay, ông là người được đường hoàng nhất.

Ivan Bounine (1870-1953), Nobel đầu tiên cho người Nga (1933), phải sống lưu vong tại Pháp từ 1920. Boris Pasternak (1890-1960), Nobel thứ hai (1958), thì buộc phải từ chối nhận giải để được yên thân. Ấy là chưa kể tác phẩm chính, "Bác sỹ Jivago", được in và phổ biến ở nước ngoài rất lâu trước khi được in và phổ biến ở Nga.

Nobel thứ ba (1970) Alexandre Soljenitsyne (sinh năm 1918) chịu nhiều cay đắng, như tác phẩm bị cấm, tác giả bị bắt bớ, tù tội trước khi bị trục xuất khỏi Tổ quốc từ 1974. Mãi 1994, ông mới được trở về.

Nobel thứ 5 (1987) Joseph Brodsky (1940-1996) cũng bị làm tình làm tội trước khi bị trục xuất khỏi Liên Xô năm 1972, sau đó trở thành công dân Mỹ.

Sôlôkhôp, Nobel thứ tư, suốt đời được trọng vọng đúng với danh nghĩa nhà văn. "Sông Đông êm đềm" tạo nên ngoại lệ duy nhất trong cuộc đối địch Đỏ – Trắng : cả hai phe, trong và ngoài nước, đều hoan hỉ chào đón một tài năng lớn. Chỉ một tình yêu sâu nặng đối với xứ sở và người lao động quê hương, một quá trình tự học hiệu quả, đúng kiểu học của một nghệ sỹ, bằng tình yêu ấy, cộng với thiên tài bẩm sinh, mới giải thích được thành công và sức sống của "Sông Đông êm đềm" mà công cuộc chinh phục thế giới vẫn đang tiếp tục …

Khuất Lệ Lan
Theo Tiền Phong

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *