Đàn ông thân mến,
Chúng ta thử tìm hiểu một thí dụ, như xã hội Thụy Điển, nơi phụ nữ được thực hành quyền chính trị gần 300 năm : Từ năm 1718, những phụ nữ có đóng thuế cho Công hội thì được phép bầu cử và ứng cử. Đó cũng là xã hội sớm có quan điểm phóng khoáng về đạo đức : Vào thời “phụ nữ chửa hoang” chịu đựng những hình phạt tàn nhẫn ở nhiều nơi trên thế giới, thì ở Thụy Điển từ năm 1778, phụ nữ không chồng mà có thai được phép sanh con ở làng khác, được phép không trả lời những chất vấn về việc sinh con, được phép giữ và nuôi con mà không cần khai trên giấy tờ chính thức về tình trạng hôn nhân. Từ năm 1842, tất cả trẻ em gái lẫn trai đều được đi học như nhau theo luật định. Phụ nữ Thụy Điển được làm công chức từ năm 1859, và năm 1939, Thụy Điển đã có luật cấm sa thải nữ nhân viên với lý do có chồng hay có con. Phụ nữ Thụy Điển được phép làm mục sư từ năm 1958. Quyền bỏ thai được luật pháp bảo đảm từ năm 1975. Phong trào phụ nữ Thụy Điển dẫn đầu phong trào nữ quyền ở Âu châu trong thập niên 1960s và 1970s.
Ngày nay, Thụy Điển là một trong những xã hội có mức sống cao nhất thế giới cả về vật chất lẫn văn hóa; nền giáo dục, y tế và phúc lợi xã hội Thụy Điển thuộc loại tốt nhất châu Âu. Mặc dù vẫn chưa xã hội nào thực sự là một thiên đàng nơi hạ giới cho phụ nữ, hoặc con người nói chung, thực tế xã hội Thụy Điển chứng minh một điều : phụ nữ được tự do, bình đẳng, độc lập, hoàn toàn không làm xáo trộn hay băng hoại xã hội, mà ngược lại, góp phần tích cực hoàn chỉnh xã hội đó.
Lấy một thí dụ khác ở gần xứ mình hơn : Singapore. Đảo quốc này trong giai đoạn lập quốc, thập niên 1960s, đã có một nền giáo dục tiến bộ giúp cho phụ nữ có học vấn tốt, có nghề nghiệp chuyên môn, có việc làm, khiến họ đóng góp đáng kể vào sự phát triển của nước này.
Nhưng sau ba thập niên phát triển, người ta cảm thấy có trục trặc : tỷ lệ kết hôn và sinh đẻ giảm đi, tỷ lệ ly dị tăng, lớp phụ nữ Singapore mới có trình độ văn hóa cao, độc lập kinh tế, sành điệu, “tự tung tự tác” ở nơi làm việc, sống độc thân, từ chối vai trò nội trợ. Những điều này bị coi là ảnh hưởng văn hoá phương Tây, hậu quả của hiện đại hoá và bình đẳng giới. Những người đàn ông lãnh đạo nước này đã bộc lộ nỗi lo ngại và đưa ra những chương trình để cố gắng đem phụ nữ về lại vị trí “truyền thống trong gia đình.” Nhưng không thể đảo ngược trào lưu nữa : Vấn đề bình đẳng ở Singapore trở thành vấn đề của nam giới, họ phải thay đổi, vươn lên, chứ không thể kềm hãm phụ nữ ở tầm thấp hơn hòng duy trì trật tự “truyền thống”. Phụ nữ đã có ý thức bản thân, ý thức độc lập, tự chủ, thì không chịu để ai tước đi tự do của mình mà không đấu tranh vùng vẫy.
![]() |
Khi xã hội Việt Nam mở cửa, không ít người nhìn sang Singapore tìm một mô hình, ít nhất cũng trong lĩnh vực giáo dục, kinh tế, văn hóa, vì cho rằng hai xã hội có chung nền “văn hóa Á Đông”. Trong tiếp xúc cá nhân hay trong những cuộc thảo luận, tôi đã nghe những ý kiến như cần duy trì gia đình truyền thống, vai trò phụ nữ là chăm sóc gia đình, phải biết những bí quyết giữ gìn hạnh phúc gia đình, phụ nữ học cao khó lập gia đình, và không nên coi trọng công danh sự nghiệp hơn gia đình. Cái gì đã định hướng ý thức giới của phụ nữ vô phạm vị “gia đình” mà thôi? Bình đẳng giới được lược giản thành chuyện cân bằng quyền hành giữa vợ và chồng. Từ đó, những vấn đề nữ quyền bị khôi hài hóa, thậm chí thô tục hóa. Kết quả là câu chuyện phụ nữ – gia đình trở nên nhàm chán, cũ rích. Cuộc đấu tranh khẳng định mình của từng phụ nữ bị coi là nổi loạn, cuộc đấu tranh cho công bằng giới trong xã hội bị né tránh, bóp méo.
Quả thực, có những xã hội giàu có nhưng chưa hẳn phụ nữ được bình đẳng. Nhưng lịch sử phong trào phụ nữ cho thấy, khi có bình đẳng giới thì xã hội phát triển mạnh và vững vàng vì nguồn nhân lực phụ nữ được nâng cao chất lượng và được sử dụng hợp lý. Xã hội có bình đẳng giới thì phụ nữ mới sống được trọn vẹn cuộc đời một con người, chứ không phải cái phận đàn bà phụ thuộc.
Tôi cũng coi trọng gia đình và sự bình đẳng giữa vợ chồng vì đó chính là bài học sống động cho con cái. Bình đẳng giới là vấn đề văn hóa, được hình thành từ giáo dục từng cá nhân trong gia đình, nhà trường, song song với thiết chế luật pháp của xã hội. Không phải đùng một cái mà có được ý thức bình đẳng giới, cũng không thể hô hào khơi khơi mà thay đổi được những “truyền thống” tồn tại cả ngàn năm. Từ khi phụ nữ Thụy Điển đóng thuế để được quyền bỏ phiếu đến khi luật pháp bảo đảm nền giáo dục công bằng cho phụ nữ là 124 năm. Từ khi phụ nữ Thụy Điển được đi học, có năng lực đi làm, đến khi có luật bảo vệ họ khỏi bị sa thải vì sanh con là 97 năm. Lớp “phụ nữ Singapore mới” cũng cần hai ba thập niên để hình thành. Và phần lớn những thành tựu về giới trong xã hội đều là thành quả nỗ lực của cả đàn ông và đàn bà. Nên tôi không sốt ruột. Vả lại, biến chuyển bình đẳng giới trong xã hội chúng ta hiện nay là điều không cưỡng được.
Đàn ông, chúng ta hãy cùng tiến, hoặc tránh ra.
Lý Lan – Theo Tuổi Trẻ