Trong công luận Nga và quốc tế, một thời khá phổ biến định kiến cho rằng, sở trường, sức mạnh của Dostoievski là ở sự mô tả những nhân vật tiêu cực – những con người hoặc độc ác bẩm sinh, hoặc đã để cho tâm hồn mình trở thành chiến trường của cái thiện và cái ác, với sự ưu thắng của cái ác. Còn mỗi khi khắc họa những nhân vật tích cực là người đọc cảm thấy ngay tác giả này non tay, không tin vào chính mình, thậm chí khiên cưỡng, sống sượng.
Fiodor Mikhailovich Dostoievski
Bị ấn tượng mạnh bởi bảng màu sơn dầu sẫm chói cần thiết cho sự khắc họa những hình tượng kiểu thứ nhất, người ta ít nhạy cảm với những chân dung tế nhị, với những nét chấm phá thanh thoát được thực hiện bằng màu nước hoặc màu bột.
Hình tượng Sophia Andreevna trong Đầu xanh tuổi trẻ thuộc kiểu chân dung như thế – một trong những hình tượng người mẹ và người vợ cảm động nhất và sâu sắc nhất trong văn học Nga. Versilov nói với con trai mình : “Sự khiêm nhường không chờ đền đáp, sự tự hạ mình và đồng thời sự rắn rỏi, sức mạnh, sức mạnh thực thụ – đó là tính cách của mẹ con”. Người phụ nữ hết mực dịu hiền, hi sinh tất cả vì chồng con ấy không biết nhượng bộ trong những việc quan hệ đến đạo lí, tín ngưỡng. Đức tin tôn giáo thường trực và nồng nàn, không thuyết lí mà hành động thiết thực tạo nên cốt cách của người phụ nữ này, khác với sự thiếu cốt cách của người chồng hào hoa thâm thúy.
Cũng cốt cách ấy, cũng đức khiêm nhường đi đôi với lòng tự trọng, lòng yêu Chúa hòa hợp với lòng yêu đời nằm sâu trong hình tượng Makar Ivanovich – một nông phu tự nguyện rời bỏ gia đình để làm người lữ khách thần hiệp. Versilov phiêu du khắp châu Âu tìm căn cứ mới cho đức tin đã lung lạc, Makar Ivanovich du ngoạn trên đất nước mình với niềm tin tỏa sáng trong lòng. Ông tin : “Tất cả đều là huyền bí, huyền bí của Thượng Đế cùng khắp. Trong mỗi thân cây, mỗi cọng cỏ đều chứa đựng huyền bí”, “tất cả đều do Thượng Đế trao gửi cho con người”, vì thế mà thiêng liêng. Tương lai của loài người trong Thượng Đế sẽ huy hoàng, “địa cầu sẽ ngời sáng hơn mặt trời, ưu phiền sầu muộn sẽ không còn nữa, mà chỉ có một thiên đường duy nhất, vô giá… ”
Những con người như Makar Ivanovich có thật trong hiện thực Nga và không chỉ trong quần chúng nhân dân (Vladimir Soloviev, đại trí thức và bạn vong niên của Dostoievski, cũng là một lữ khách thần hiệp đặc thù). Trong tiểu thuyết của Dostoievski, đức tin của người nông phu già này có tác dụng giáo dưỡng tích cực đối với người thanh niên đầu xanh tuổi trẻ mới bước vào đời và đã không tránh khỏi ngã vấp. Song có điều, đức tin ấy trong sáng và lạc quan một chiều. Nó không trả lời quá nhiều câu hỏi, nó không trông thấy hoặc nhắm mắt làm lơ trước nhiều mặt đen tối, bất hảo của thế giới này, nó không biết đến những thắc mắc, trăn trở, hoài nghi chính đáng của Versilov, cho nên, nó khó làm thỏa lòng đến cùng người đọc. Và chắc nó cũng không thỏa mãn cả tác giả Dostoievski. Đức tin mà nhà văn này tìm kiếm phong phú, phức hợp và bao quát hơn nhiều. Ông sẽ thể hiện nó đầy đủ và chân xác trong tiểu thuyết Anh em nhà Karamazov. Đầu xanh tuổi trẻ vừa là một thành tựu sáng tạo có giá trị tự thân, vừa là bước chuẩn bị cần thiết cho kiệt tác vĩ đại nhất, nơi tổng hợp tất cả những đề tài và tư tưởng chính yếu của Dostoievski.
Rời bỏ tuần báo Người dân quốc đầu năm 1874, Dostoievski mong muốn sẽ tiếp tục chuyên mục Nhật kí nhà văn ở một cơ quan ngôn luận nào khác, hoặc dưới hình thức một xuất bản phẩm độc lập. Sau khi hoàn thành tiểu thuyết Đầu xanh tuổi trẻ từ đầu năm 1876, Dostoievski thực hiện ý đồ này, cho in Nhật kí nhà văn như một tạp chí định kì. Trong hai năm, ông ra được 24 số, đến đầu năm 1878 tạm dừng để tập trung viết Anh em nhà Karamazov. Giữa năm 1880, ông ấn hành một số đặc biệt, công bố bài nói của mình về Pushkin. Viết xong Anh em nhà Karamazov, ông trở lại với Nhật kí nhà văn, nhưng vừa mới hoàn thành số tháng Giêng 1881 thì qua đời. Như vậy, ta có tất cả 26 số tạp chí rất hiếm có của một tác gia.
Nhật kí nhà văn có lối viết tự nhiên, thoải mái của nhật kí và giọng tâm tình của những bức thư gửi bạn bè. Dostoievski tâm sự, trao đổi với bạn đọc về những vấn đề ông đương quan tâm lúc này và những việc mà họ quan tâm, thiết lập quan hệ đối thoại thân mật giữa mình với công chúng độc giả Nga. Nhật kí dành khá nhiều chỗ cho những hồi ức và chuyện kể về tuổi thơ, về những bước đầu tiên trên đường văn nghiệp, về bạn bè và họ hàng – Dostoievski đã cập kề tuổi già và có nhu cầu nhớ lại quá khứ. Cũng trong Nhật kí này, ông in những truyện ngắn của mình, trong đó Dịu hiền (1876) và Giấc mơ của con người nực cười (1877) là hai viên ngọc sáng. Dostoievski chăm chú theo dõi sáng tác của các đồng nghiệp. Ông là một trong những người đầu tiên thấu hiểu giá trị của cuốn tiểu thuyết mới Anna Karenina của L.Tolstoi khi nó còn đăng tải trên tạp chí. Ông tự hào khẳng định : trong văn học châu Âu thời ấy, không có gì có thể đặt ngang hàng với trước tác này của thiên tài Nga. Từ đó mà ông xây kì vọng về ảnh hưởng
của “tư tưởng Nga” đối với nhân loại.
Bận tâm tha thiết với thời cuộc, Dostoievski bàn luận nhiều về những vấn đề thời sự, trong đó nổi cộm lên cuộc đấu tranh võ trang của các dân tộc Xlavơ ở Đông Âu nhằm lật đổ ách thống trị của đế quốc Thổ Nhĩ Kì. Dostoievski nhìn vấn đề chủ yếu từ góc độ tôn giáo : ông nhiệt liệt ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của những người anh em cùng tín ngưỡng. Và khi Sa hoàng tuyên chiến với Thổ để chi viện cho phong trào giải phóng ở Balcan, Dostoievski – một người cương quyết phản đối bạo lực cách mạng – đã không do dự cổ vũ cho cuộc “thánh chiến” này. Nhưng ông đã đi quá xa : ông hô hào chiếm Constantinople, thủ đô Vương quốc Hồi giáo, với lí do xưa kia nó là trung tâm của thế giới Kitô giáo ở phương Đông, mà không nhận ra rằng, bằng cách ấy, ông phụ họa cho những ý đồ bành trướng đại Nga rất tầm thường.
Đây là điểm yếu nhất của Dostoievski – nhà tư tưởng : lúc say sưa, ông hay quá đà, mất tỉnh táo sáng suốt. Điều này, ông tự biết, ông xỉ vả mình trong thư gửi một người bạn thân : “Tệ nhất là cái bản tính của tôi đốn mạt và quá hăng say. Trong mọi việc, tôi đều đi đến giới hạn cuối cùng, suốt đời đi quá giới hạn”. Biết mà không sửa chữa được : chủ nghĩa yêu nước của Dostoievski – nhà chính luận nhiều khi trượt sang chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, niềm tin vào tiền đồ của Tổ quốc chuyển hóa thành thuyết về sứ mạng cứu thế của nước Nga, lòng sùng tín chân lí của đạo Kitô nguyên thủy dẫn đến việc đề cao một chiều Chính giáo và bài bác Công giáo như một giáo phái đã phản bội Chúa v.v… Những sai lầm như thế phương hại nghiêm trọng giá trị của văn chính luận Dostoievski.
Nhưng nhà văn của chúng ta có nhiều ý kiến xác đáng về những vấn đề xã hội hay mẫn tiệp lạ thường mỗi khi đề cập những vấn đề con người. Ở đây, ông tư vấn và hướng dẫn không chỉ cho những người cùng thời đại và cùng dân tộc với ông. Một thí dụ : theo dõi báo chí, Dostoievski để ý đặc biệt đến những vụ tự sát có xu hướng gia tăng trong thanh niên, sinh viên thuộc tầng lớp trung và thượng lưu xã hội. Những người tự sát ấy không phải là nạn nhân của bất công xã hội. Họ sinh ra và lớn lên trong những hoàn cảnh thuận lợi, họ có khả năng tiến thủ, đạt vị trí cao sang trong xã hội, họ cũng không thất tình, không mắc chứng bệnh tâm thần… Vậy cái gì khiến họ kết liễu cuộc đời thanh xuân của mình? Dostoievski giả định với xác suất cao : trong đa số trường hợp, trực tiếp hay gián tiếp, những con người ấy tự sát vì một nguyên nhân siêu lí – họ không tìm thấy ý nghĩa và mục đích của cuộc sống. Mà cái mục đích và ý nghĩa ấy của nhân sinh, xét đến cùng, phải là sự bất tử của con người và loài người. Và chừng nào khoa học chưa đem lại bất tử cho con người, nó còn cần đến tôn giáo hứa hẹn cho nó sự sống vĩnh viễn sau cái chết tạm thời.
Do đó : ý tưởng bất tử trong tôn giáo làm cho con người quý giá sự sống hơn, yêu vạn vật, yêu nhân loại, yêu tạo hóa, tức là làm cho sự tồn sinh của nó đầy ắp ý nghĩa. Và ngược lại, tước đoạt đi của con người niềm tin vào sự bất tử, bắt nó bằng lòng với một hạnh phúc hữu tử ở cõi trần, như viên Đại pháp quan sẽ làm trong truyền thuyết được kể trong tiểu thuyết Anh em nhà Karamazov, tức là biến loài người thành một cái gì đó giống bầy gia súc vô tri thức. Rất nhiều sợi chỉ tư tưởng dẫn thẳng từ Nhật kí nhà văn đến kiệt tác cuối cùng của Dostoievski.
…Một thị trấn Nga mang cái tên tiếu lâm : Scotoprigonevsk. Ở đây xảy ra một vụ án mạng : lão điền chủ họ Karamazov, tham lam, gian lận và trụy lạc khét tiếng, bị giết và cướp tiền. Mọi tang chứng và nghi ngờ đổ vào người con trai cả của lão, hai cha con đã từ lâu xích mích xung quanh vấn đề gia sản và gần đây lại trở thành tình địch. Dmitri (tên người con trai) hơn một lần dọa sẽ giết bố. Tác giả một lần nữa, sau Đầu xanh tuổi trẻ, kể lịch sử “một gia đình ngẫu hợp”, mà trong đó từ lâu đã tan vỡ mọi kỉ cương nền nếp, mọi quan hệ nghĩa tình. Sự “bất khả ái” và “bất khả kính” của người cha đạt mức độ gây tởm. Fiodor Karamazov là hiện thân của tính dâm dục, không phải tính ham nhục dục tự nhiên, biết mình là xấu nên biết tự che đậy, mà là tính dâm ô trơ trẽn, thách thức xã hội, khoái chí vì sự sa đọa xấu xa của mình.
Trong thế giới của Dostoievski, tất cả đều có nguồn gốc tinh thần, đều là sự lựa chọn có ý thức. Sự dâm đãng vô độ ở Karamazov – cha thể hiện một nhãn quan và một lối ứng xử với đời : trên đời không có gì thiêng liêng, hãy làm cái ta thích và cười vào mặt ai chê bai ta. Hình tượng này là một biến tấu của hình tượng con người “từ nhà hầm”, con người quyết không tin vào Thượng Đế và tự dập tắt hình ảnh của Thượng Đế ở trong mình, con người tự “cởi trói” khỏi mọi chuẩn mực đạo đức xã
hội để trở thành nô lệ cho những dục vọng cá nhân. Cái dục tính “sưng tấy”, quá khích, không biết thỏa mãn ấy trở thành một sức mạnh độc ác, phá hoại nhân cách và phá hoại sự sống. Karamazov – cha không chỉ bất hạnh và cô đơn trong cuộc đời mình, theo quy luật tự nhiên, lão còn di truyền cho tất cả các con của lão cái máu dâm dục – “chất Karamazov”. Chất ấy sẽ biểu hiện ở mỗi người con một cách khác.
Dị thường nhất, quái đản nhất là sự chuyển hóa máu dâm dục ấy thành bạo dâm ở đứa con hoang và con hầu Smerdiakov. Smerdiakov sẽ tìm khoái lạc không phải ở thỏa mãn nhục dục, mà ở sự hành hạ, sát hại những sinh linh khác. Hắn sẽ trả thù cuộc đời bằng cách giết chính người đã cho hắn sự sống – cha hắn. Bên cạnh Smerdiakov, người tiếp thu nhiều nhất và trực tiếp nhất cái di sản khốc hại của người cha là Dmitri – kẻ thù và tình địch của thân phụ mình. Nhưng Dmitri đã là một nhân cách phức hợp hơn người anh em vô thừa nhận của mình rất nhiều.
Hình tượng này được cả thế giới đánh giá không sai là một trong những phát kiến nghệ thuật, nó cũng là phát kiến nhân học, sáng giá nhất của Dostoievski. Hầu như tất cả các khả năng nhân tính đều tập trung ở mức độ cao trong con người này : dâm loạn và thánh hạnh, tàn nhẫn và độ lượng, hung ác và đôn hậu, ti tiện và hào hiệp, bê tha và cao khiết. Biên độ của những dao động nội tâm, của những khát vọng và hành động mâu thuẫn nhau ở Dmit’ri khiến bản thân chàng kinh ngạc. Chủ yếu dựa vào những sở nghiệm của mình, Dmit’ri khái quát : “Con người rộng quá. Giả sử có thể thì tôi sẽ thu hẹp lại”.
Cũng như cha mình, Dmit’ri đam mê tửu sắc, nhiều phen ngập ngụa trong trụy lạc, biết cái “ngọt”, “cái đẹp” của trụy lạc, yêu cả sự tàn bạo gắn liền với trụy lạc, xem mình là một “con rệp”, “con côn trùng độc ác”. Nhưng trong tâm hồn mù lòa ấy có cánh cửa mở để tiếp nhận ánh sáng khải ngộ của cái đẹp chân chính. Bị nô dịch bởi “lí tưởng Sodome”(*), nó vẫn tôn thờ “lí tưởng Đức Mẹ”; ý thức được mình đương bất lực đi theo quỷ dữ, nó vẫn kính yêu Thượng Đế như con kính yêu cha và “cảm thụ được niềm vui, mà không có nó, thế giới không thể đứng vững và tồn tại”. Đức tin chưa tắt trong phút kịch biến đã giữ tay Dmit’ri lại, không cho phạm tội giết cha. Con người sa đọa, lầm lỗi ấy khao khát được giải cứu, và cơ hội trùng phùng trong tiểu thuyết mở ra cho nó một con đường giải cứu – qua tình yêu đầy hi sinh của một giai nhân đức hạnh. Nhưng cái tình yêu thương hại và khắc nghiệt, tình yêu kiêu hãnh về đức hạnh của mình ấy không cảm hóa được nó. Nó mau chóng chối từ để đi theo một đam mê sét đánh, thà chết bởi đam mê ấy, chứ không sống trong hạnh phúc khiên cưỡng của tình yêu duy ý chí. Và hóa ra trái tim của nó đã lựa chọn sáng suốt : “con quỷ cái” ấy (Grushenka), mà ban đầu nó vừa đắm say vừa căm ghét, hóa ra cũng là một tâm hồn sa ngã khao khát hoàn lương, tìm kiếm sự cảm thông tri ngộ và bản thân giàu khả năng cảm thông tri ngộ, biết tự hi sinh mà không ý thức đó là sự hi sinh…
Sự giải cứu đến với Dmit’ri thông qua sự thăng hoa tình dục thành tình yêu, thông qua sự tự phán xử và tự trừng phạt vì cái chết của người cha – chàng chấp nhận không chống kháng bản tuyên phạt oan trái của tòa án, coi đó là một quyết định tự nguyện chuộc tội. Con người của Dmit’ri cao lớn lên, tự tẩy rửa khỏi những tì vết nội tại, trở nên minh mẫn tự chủ qua khổ đau, qua những đòn giáng của số phận. Dmit’ri là nhân vật của tiểu thuyết – bi kịch, chứ không phải của kịch mêlô (tương đương với kịch cải lương ở ta). Một chất thơ hào mại của tự do tinh thần toát ra từ toàn bộ sự phát triển của nhân cách nhiều chiều này. Đề tài cái tự do của con người, hơn một lần đã được đặt ra trong sáng tác của Dostoievski, ở Anh em nhà Karamazov sẽ được khơi sâu và soi sáng từ nhiều điểm nhìn mới, thông qua nhiều tuyến chủ đề và nhiều nhân vật mới.
(Còn nữa)
Giáo sư Phạm Vĩnh Cư
Theo Vietimes