Fiodor Mikhailovich Dostoievski

Dostoievski : Nguồn sữa vĩnh cửu từ nỗi khổ đau!

“ …Con người là một bí ẩn. Cần tìm ra bí ẩn ấy, và nếu có tìm suốt đời, thì cũng đừng cho là đã mất thì giờ. Tôi vật vã với nó, vì tôi muốn làm người.” – Mười tám tuổi, Dostoievski viết cho người anh, như thể vạch cương lĩnh cho cuộc đời của chính mình…

120 năm về trước, khi Dostoievski Fiodor Mikhailovich qua đời, chẳng mấy ai đoán được số phận của ông sẽ ra sao trong hậu thế. Như một tiểu thuyết gia, Dostoievski sinh thời đã khá nổi tiếng, nhưng danh tiếng ấy không sánh được với vinh quang của L.Tolstoi và thua kém uy tín của Turgenev, Goncharov, Tschedrine, Uspenski – những cây bút văn xuôi hoạt động cùng thời với ông trong văn học Nga. So với họ và lấy họ làm chuẩn mực, không ít nhà phê bình phiền lòng chỉ ra ở những sáng tác của Dostoievski nhiều mặt khó chấp nhận, nhiều khuyết điểm khó giải thích. Cái chết đột ngột của Dostoievski với lễ tang rầm rộ tự phát làm chấn động kinh thành Peterburg – hàng vạn người đi theo sau linh cữu nhà văn, cả một nước Nga thu nhỏ với những khuôn mặt xã hội đối lập và đối kháng, từ đại diện Hoàng gia đến những người cách mạng cực tả, từ giới tăng lữ chính thống đến lớp thanh niên, sinh viên vô thần, từ những đại trí thức đến những tiểu thương, tiểu chủ… – trong phút giây như làm lóe sáng ý nghĩa toàn dân tộc, toàn nhân loại của hiện tượng Dostoievski. Song, nhận chân đầy đủ ý nghĩa ấy, ý thức hết giá trị của cái tài sản tinh thần mà Dostoievski để lại còn là một quá trình dài lâu và rất quanh co khúc khuỷu.

Ba năm sau khi Dostoievski mất, Vladimir Soloviev, một triết gia và thi sĩ trẻ sớm nổi lên như sao sáng bậc nhất trên bầu trời tinh thần của nước Nga, cho in thành sách riêng ba diễn từ tưởng niệm Dostoievski, khẳng định vai trò người đồng hành người chỉ lối của Dostoievski trong hành trình của nhân loại châu Âu tìm đến vương quốc của cái tận thiện tận mĩ. Như thể đồng vọng lời tiên đoán ấy, một trí tuệ lớn khác, người Pháp – E.M.Vogỹé, đầu năm 1885 cho đăng ở Pháp một thiên tiểu luận dài dưới tiêu đề đập vào mắt người đọc : Dostoievski hay là tôn giáo của sự khổ đau. Bài viết này sẽ trở thành một chương trong công trình rất nổi tiếng của tác giả này – Tiểu thuyết Nga, xuất hiện năm 1886 và mở đường cho cái mà có người sẽ gọi là “cuộc xâm lăng” của văn học Nga sang Tây Âu.

Dè dặt hơn Soloviev và kiến giải sai lệch nhiều, Vogỹé dẫu sao vẫn nhận ra ở Dostoievski một thủ lĩnh tinh thần của dân tộc ông. Vị thủ lĩnh này đã gửi tới thế giới phương Tây một thông điệp đầy ý tứ, không thể làm lơ bởi vì nó biến thành khả nghi quá nhiều giá trị mới lên ngôi trong nền văn minh châu Âu thời mới. Song, những tiếng nói như Soloviev hay Vogỹé vẫn còn khá lẻ loi trong suốt thế kỉ XIX – thế kỉ còn tương đối bình ổn về mặt xã hội cũng như tinh thần con người, và vì thế chưa mấy nhạy thính với những lo âu trăn trở, những dự báo và cảnh báo của Dostoievski.

Bước sang thế kỉ XX, tình hình thay đổi hẳn. Thế giới cứ như đột nhiên phát hiện ra Dostoievski. Hàng loạt danh nhân Nga và châu Âu, đại diện cho những trào lưu tư tưởng – nghệ thuật mới nảy sinh, đua nhau phát biểu về Dostoievski, ngưỡng mộ nhìn thấy ở ông một tiền khu vĩ đại, người đã nói lên một sự thật mới, sâu sắc và phức tạp hơn xưa rất nhiều, về thế giới và con người, đã diễn đạt một cảm thức mới về cuộc đời, gần gũi với cảm thức của những con người sống trong thời đại của những biến động xã hội long trời lở đất sẽ diễn ra như phản ứng dây chuyền khắp hành tinh.

Làn sóng mê say Dostoievski lan tràn khắp châu Âu từ đầu thế kỉ này đã tỏ ra không phải là thứ mốt tinh thần. Nó lắng đọng thành tình yêu bền bỉ của các thế hệ độc giả nối tiếp nhau đối với một thiên tài đã quyết liệt và hơi quá sớm đi trước thời đại mình, thành những nỗ lực chuyển dịch tác phẩm Dostoievski sang hàng chục thứ tiếng, thành hàng trăm, hàng ngàn công trình nghiên cứu cuộc đời, nhân cách, sáng tác của Dostoievski, khám phá, kiến giải thế giới nghệ thuật và tư tưởng của ông. Cùng với vinh quang toàn cầu, Dostoievski mau chóng phát huy ảnh hưởng tác thành tới văn học thế giới, tới những khu vực tưởng chừng xa lạ lắm với văn hóa Nga và châu Âu – một Akutagawa ở Nhật Bản, một Lão Xá ở Trung Quốc và một Nam Cao ở Việt Nam đủ cho thấy quy mô và chiều sâu của ảnh hưởng ấy. Song, không chỉ trong văn học nghệ thuật, mà còn trong nhiều lĩnh vực khác của đời sống loài người trong thế kỉ này, người ta thấy sự hiện diện giàu hiệu ứng của Dostoievski : triết học, thần học, đạo đức học, tâm lí học, chính trị học, luật học…

Nhưng có mặt năng nổ như thế trong cuộc sống của hậu thế, Dostoievski tất y
ếu phải chịu số phận chìm nổi của người trong cuộc, người tham chiến, người can dự cuộc đấu tranh dai dẳng một mất một còn giữa các thế lực đối kháng của thời đại này. Trong cuộc đấu tranh ấy, bị chi phối bởi những quy luật của nó, nhiều khi cái tinh anh mẫn tuệ, cái xán lạn muôn đời ở Dostoievski lại bị che khuất đi, còn cái hạn hẹp, cái nhất thời thì lại nổi lên hàng đầu, quy định thái độ tiếp thu hay chối bỏ, tán dương hay phỉ báng di sản của nhà văn này ở phe này hay phe kia, ở nước này hay nước kia, trước tiên ở ngay Tổ quốc của ông. Thế nhưng, kinh qua mọi thăng trầm của lịch sử, nơi nào Dostoievski đã thu phục được tâm hồn bạn đọc, nơi ấy vẫn còn lại không suy chuyển tình yêu đối với ông, ý thức về sự cần thiết rất dài lâu của ông cho cả loài người trên mọi nẻo đường tiến hóa của nó.

Trong văn học thế giới ngày nay, sau một thế kỉ phát triển phong phú và phức tạp chưa từng thấy, với rất nhiều tài năng lỗi lạc, nhiều trào lưu, trường phái cách tân táo bạo đối đầu và phủ định lẫn nhau, xem ra Dostoievski vẫn giữ vị trí đầu bảng, ít nhất trong địa hạt văn xuôi : sau Anh em nhà Karamazov, rõ ràng chưa xuất hiện tác phẩm tiểu thuyết nào có thể đặt ngang hàng với nó. Điều đáng chú ý nữa là cùng với Dostoievski – nghệ sĩ, không tách rời nhưng cũng không hòa đồng đến cùng, nhà tư tưởng Dostoievski hình như cũng đương ngày càng phát huy ảnh hưởng. Dưới ánh sáng của cái bản tổng kết thời đại mà loài người, như một thực thể mới, không thể không làm trong cục diện thế giới mới và bước vào thiên niên kỉ mới, nhiều trang viết cũ của Dostoievski được đọc lại bằng con mắt mới. Người ta nhìn ra ở tư duy Dostoievski, ở những mối bận tâm, những tìm tòi và định hướng tinh thần của ông những chiều sâu nhân bản mới, những khía cạnh chân lí vĩnh hằng trước đây còn ẩn khuất.

Nếu trong những thập kỉ trước, ý thức xã hội bị cuốn hút nhiều hơn bởi những lo âu vật vã, những chẩn đoán và dự đoán bi quan của Dostoievski, bởi cái phần phủ định trong sáng tác của ông, thì ngày nay, tâm thức con người ngày càng tỏ ra nhạy bén hơn với những gì ông khẳng định, với ánh sáng của lí tưởng và niềm tin nơi Dostoievski. Khối tài liệu vốn đã hết sức đồ sộ về Dostoievski cuối thế kỉ vừa kết thúc được bổ sung bằng một loạt công trình quan trọng xuất hiện ở nhiều nước khác nhau, đánh giá một cách am hiểu, công bằng và tri ân cống hiến của Dostoievski cho nghệ thuật văn chương và kho tàng tư tưởng của loài người.

Xem ra, vận mệnh nhà văn Nga này đương bước vào một thời kì mới, bớt sóng gió ồn ào, nhưng lại tỏa sáng sâu rộng và bền lâu hơn.

Sự ra đời của thiên tài bao giờ cũng là bí ẩn, không tuân theo quy luật tư duy tư biện nào, lại càng không thể giải thích bằng những nguyên nhân ngoại giới. Trường hợp Dostoievski cũng thế : không có gì báo hiệu sự xuất hiện trong văn học Nga một ngòi bút khác thường như Dostoievski, cũng như ở trong gia đình bác sĩ trưởng Bệnh viện Tế bần Mikhail Andreevich Dostoievski, chẳng ai có thể ngờ rằng người con trai thứ hai trong bảy người con của ông, sinh ngày 30 tháng Mười năm 1821 theo lịch Nga cũ tại Mátxcơva, sẽ trở thành một trong những nhà văn lớn nhất của mọi dân tộc và mọi thời đại. Nếu cứ cố tìm gien di truyền, thì nhiều nhất chỉ có thể nói rằng, người mẹ dịu hiền và chết sớm đã truyền cho Fiodor Dostoievski (và cả anh ông) lòng yêu văn chương, để sau này, đến lượt mình, Dostoievski đã “di truyền” cho con gái mình cái khiếu viết văn.

Người con gái nối nghiệp nhưng không có được thiên tài của người cha ấy, Liubov Fiodorovna Dostoievskaia, mồ côi cha từ 11 tuổi, đã lưu danh hậu thế không bằng những sáng tác của mình (mặc dù bà viết và in khá nhiều), mà bằng cuốn hồi kí về người cha, mà trong đó thực hư hết sức lẫn lộn. Chẳng hạn, hoàn toàn hư cấu là cái “nòi giống Litva” của nhà đại văn hào Nga, trong khi như mọi tư liệu chứng nhận, ông nội Dostoievski đã sinh ra, lớn lên ở vùng Nam Ucraina và là một linh mục của nhà thờ chính thống Nga. Người con gái của Dostoievski cũng cường điệu và thêu dệt nhiều xung quanh quan hệ phức tạp giữa Dostoievski và cha ông. Một phần dựa vào đấy mà sau này Freud đã dựng lên huyền thuyết về “mặc cảm sát phụ” ở Dostoievski, góp phần bóp méo hình ảnh của Dostoievski trong con mắt độc giả phương Tây cả tin.

Chỉ những khảo cứu tận tường trong những thập kỉ gần đây mới cho phép xác lập bức tranh chân thật về tuổi thơ ấu của Dostoievski – nó không thiếu hơi ấm và ánh sáng của tình yêu, của sự chăm sóc từ cả hai phía cha mẹ. Điều quan trọng là Dostoievski được hưởng một nền giáo dục có hệ thống, được học hành đến nơi đến chốn. Về mặt học thức, Dostoievski sau này vượt hẳn nhiều nhà văn Nga nổi tiếng cùng thời với ông, và nếu trong sáng tác, ông thỉnh thoảng đề cập đến những vấn đề khoa học hiện đại, chẳng hạn hình học phi Euclide của Gauss và Lobatchevski, thì là vì ông có những hiểu biết vững chắc, chứ tuyệt kh&ocir
c;ng nghe hơi nồi chõ.

Một hằng số khác trong nhân cách Dostoievski được tiếp thu từ cha mẹ, đó là lòng mộ đạo, đức tin tôn giáo. Sau này, khi đã lớn khôn, trong thời đại, khi mà chủ nghĩa vô thần đương ưu thắng ở châu Âu và ở Nga và trở thành thói thời thượng trong giới trí thức, thanh niên, sinh viên, nhà văn và kí giả Dostoievski sẽ kiên trì bảo vệ lập trường tôn giáo của mình, từ đấy mà ông tiếp cận với mọi vấn đề của xã hội và con người. Ta sẽ trở lại điểm hệ trọng này, điều cần nói ngay bây giờ là Dostoievski không thể không ý thức lập trường tôn giáo ấy làm ông mất tín nhiệm đến đâu trong những giới xã hội mà ông hoạt động. “Bọn vô lại chế giễu tôi tin một cách cổ hủ và vô học vào Thượng đế… ” – dòng viết này ta tìm thấy trong sổ tay của Dostoievski chỉ mấy tháng trước khi ông qua đời. Và mặc dù ngay sau đó, ta sẽ đọc tiếp những suy nghĩ rất có trọng lượng về quan hệ giữa tri thức và đức tin, giữa cái thực tại và cái siêu tại, giữa luật đời và thiên ân, từ toàn bộ đoạn nhật kí vẫn toát ra cảm xúc cô đơn chua chát của một con người đi ngược dòng thời đại. Nhưng nếu Dostoievski thích nghi hoàn toàn với thời đại của mình, nếu ông dửng dưng hay làm lơ trước vấn đề tâm linh, tín ngưỡng của con người, thì liệu ông có còn là một Dostoievski mà các thế hệ mai sau sẽ tìm đến hội kiến, chất vấn?

Mê văn chương và ao ước trở thành nhà văn, Dostoievski từ nhỏ và suốt đời đọc rất nhiều, bằng tiếng mẹ đẻ và tiếng Pháp, tiếng Đức mà ông thông thạo. Ngoài văn học Nga và châu Âu, Dostoievski am tường lịch sử nước ông và châu Âu trung – cận đại và rất yêu triết học. Sau này, ngay thời làm lính ở Xibia, ông sẽ yêu cầu anh trai gửi cho ông nào Kant, nào Hegel. Ở nhà ông ở Peterburg và Staraya Russa luôn luôn có Platon mà ông thích đọc đi đọc lại. Ông sẽ đối thoại tuyệt vời với Platon, Kant, Hegel và nhiều nhà tư tưởng khác bằng những tiểu thuyết triết lí của mình, nhưng cũng có khi sẽ tranh luận trực tiếp như một kí giả. Cuối đời, ông kết bạn vong niên với Vladimir Soloviev, nhà triết học và thần học Nga vĩ đại nhất này thích đàm đạo với Dostoievski và luôn luôn hâm mộ trí thông minh sắc sảo, linh hoạt phi thường ở ông.

Trong các dòng văn học nước ngoài ảnh hưởng mạnh đến sáng tác sau này của Dostoievski cần nhắc riêng đến văn xuôi lãng mạn châu Âu với hai phân nhánh chính : xã hội – tình cảm kì ảo – giả tưởng. Như ta biết, Dostoievski suốt đời xem mình là nhà văn hiện thực, nhưng ông khá ghẻ lạnh với sáng tác của nhiều văn sĩ cùng thời mà giới phê bình ở trong và ngoài nước tán dương như những cây bút hiện thực chủ nghĩa “chính hiệu”. Ông phê phán “trường phái tự nhiên” ở Nga, mặc dù khi mới khởi nghiệp, ít nhất bề ngoài, ông là thành viên của nó. Trong văn học Pháp, ông thờ ơ, hầu như không để ý đến Flaubert và không chấp nhận Zola. Ông hâm mộ Balzac và thuở thiếu thời có dịch một tiểu thuyết của Balzac (“Eugénie Grandet”) ra tiếng Nga, song Balzac trong con mắt Dostoievski là một “trí tuệ vũ trụ”, chứ không phải một “thư kí của xã hội”. Trong khi ấy, ông suốt đời yêu và đề cao Hugo và Georges Sand, mà ở Pháp thì, từ giữa thế kỉ XIX, Georges Sand bị coi là đã hết sức lỗi thời, là “người đại diện cho chất thơ của những hư ảo giả dối” (lời Zola). Cái hư ảo, kì ảo, cái không có trong đời thực, mà chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng, của những khát vọng và thất vọng, những lo âu và sợ hãi của con người – Dostoievski yêu nó trong sáng tác của cả những cây bút lãng mạn phóng túng đến cực đoan như Hoffmann, Maturin, Poe, và sau này chính ông cũng sẽ sử dụng rộng rãi cái chất liệu phi hiện thực ấy trong những nỗ lực “lột tả mọi bề sâu của tâm hồn con người”.

“Con người là một bí ẩn. Cần tìm ra bí ẩn ấy, và nếu có tìm suốt đời, thì cũng đừng cho là đã mất thì giờ. Tôi vật vã với nó, vì tôi muốn làm người.” – Mười tám tuổi, Dostoievski viết cho người anh, như thể vạch cương lĩnh cho cuộc đời của chính mình. Trong một bức thư khác, sớm hơn một năm, ta đọc : “Tôi cảm tưởng, thế gian này là nơi tẩy tội của những linh hồn thiên giới đã mờ đục đi do tư tưởng tội lỗi. Tôi thiết tưởng, thế giới đã chuốc lấy một ý nghĩa tiêu cực và từ tinh thần thanh cao trang nhã hoá thành một trò châm biếm. Con người sao ươn hèn! Hamlet, Hamlet!” – Giống như nhân vật của Shakespeare, người thanh niên Dostoievski dày vò về sự bất hoàn thiện của thế giới và con người, khao khát tìm ra nguồn gốc siêu lí của tội lỗi và cái ác.

Và sẽ mãi mãi là thế : ngòi bút Dostoievski sau này sẽ chuyên tâm nắm bắt không phải những hiện tượng trên bề nổi cuộc sống, mà những trạng huống tâm thức ẩn khuất sau chúng và chi phối chúng, không phải những tín
h cách thực chứng trong những hoàn cảnh thực chứng, mà những thực thể tinh thần. Trong những sáng tác chín muồi của ông, những thực thể tinh thần ấy sẽ hiện ra rõ mồn một, khiến ta nhiều khi quên bẵng đi rằng chúng có và phải có cái vỏ thân xác.

Năm 1838, theo sự lựa chọn của cha mình, Dostoievski vào học Trường Cao đẳng Công binh Peterburg. Bốn năm sau, khi cha ông đã mất, ông ra trường, bỏ nghề được đào tạo, quyết tâm theo nghiệp văn chương. 

(Còn tiếp)
Giáo sư Phạm Vĩnh Cư
Theo Vietimes

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *