![]() |
Nhà văn Đoàn Giỏi |
"Đất rừng phương Nam" (1957) của Đoàn Giỏi không chỉ là tác phẩm phổ biến trong giới học sinh – sinh viên. Đối với độc giả khắp nơi trên mọi miền đất nước, họ xem tác phẩm ấy như một áng văn về con người, về vùng đất Nam bộ khá điển hình. Cho nên, "Đất rừng phương Nam" càng phổ biến khi được dịch ra nhiều thứ tiếng : Nga, Ba Lan, Trung Quốc, Đức, Tây Ban Nha…
Được biết, tác giả của tác phẩm ấy xuất thân từ một gia đình địa chủ lớn, có hàng trăm héc-ta ruộng vườn cò bay thẳng cánh, ngôi nhà thênh thang cổ kính và uy nguy như đình làng. Tất cả những tài sản ấy, gia đình ông đã hiến cho kháng chiến trong thời kỳ chống Pháp. Để rồi khi đất nước hòa bình độc lập, Đoàn Giỏi cứ lang thang rày đây mai đó… Cho đến khi qua đời, Bệnh viện Thống Nhất – Thành phố Hồ Chí Minh là nơi ông dừng chân cuối cùng.
I. CUỘC ĐỜI CHÌM NỔI
Nhà văn Đoàn Giỏi sinh ngày 15 tháng 7 năm 1925 tại thị trấn Tân Hiệp – Châu Thành – Tiền Giang. Cùng một huyện Châu Thành, thị trấn Tân Hiệp không mang dáng dấp oai hùng như thị trấn Vĩnh Kim bao lần đánh tan quân xâm lược, nó cũng không phải là vùng địa linh với những nhân tài tên tuổi lừng danh như đất Vĩnh Kim. Thế nhưng ở tại thị trấn Tân Hiệp, người dân Tiền Giang không khỏi tự hào với một Đoàn Giỏi khí phách hiên ngang, với một "Đất rừng phương Nam" bạt ngàn hào phóng, với một người chiến sĩ cách mạng dũng cảm gan dạ.
Nhà văn Đoàn Giỏi chính là người con thứ Tư (Nam bộ gọi là thứ Năm) của ông Đoàn Văn Vàng và bà Nguyễn Thị Kiểu. Ông bà này có tất cả mười người con : Đoàn Văn Mỹ, Đoàn Thị Ba, Đoàn Thị Tư, Đoàn Giỏi, Đoàn Phú, Đoàn Thị Đức, Đoàn Ngọc Hưng, Đoàn Nhân và Đoàn Thị Tuyết. Trong những người con ấy, Đoàn Giỏi, Đoàn Phú, Đoàn Nhân là những người từng tham gia hoạt động cách mạng trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Họ đều là những chiến sĩ bất khuất trung kiên, dũng cảm trên khắp các chiến trường.
Cha Đoàn Giỏi, ông Đoàn Văn Vàng là một địa chủ trí thức tiến bộ và yêu nước. Ông từng làm chủ hàng trăm héc-ta ruộng vườn. Những năm đó, vùng đất cò bay thẳng cánh ở huyện Châu Thành chính là tài sản riêng của gia đình ông. Rồi sau Cách mạng tháng Tám, ông Đoàn Văn Vàng đã hiến tất cả tài sản ấy cho chính quyền ta. Từ nghĩa cử cao đẹp ấy, ông Đoàn Văn Vàng như tạo điều kiện cho chính mình, một điền chủ lớn đã xích lại gần với cách mạng.
Thuở nhỏ, Đoàn Giỏi học ở trường trung học Mỹ Tho. Sau đó, ông theo học trường Cao đẳng Mỹ thuật Gia Định. Cứ tưởng, cuộc đời và số phận của Đoàn Giỏi đã gắn liền với cây cọ, với nét vẽ. Nào ngờ năm 1943, khi Đoàn Giỏi sáng tác được một truyện ngắn đầu tiên thì xem như cuộc đời ông chuyển sang bước ngoặt mới. Truyện ngắn ấy được nhà văn Hồ Biểu Chánh chọn đăng trên tờ Nam kỳ tuần báo. Cũng từ truyện ngắn đó, Đoàn Giỏi xem Hồ Biểu Chánh như một người thầy của mình đối với văn chương. Sau đó, những truyện ngắn khác của Đoàn Giỏi viết bao giờ cũng được sự góp ý chân tình từ Hồ Biểu Chánh. Về sau, tác phẩm của Đoàn Giỏi gần gũi với người dân lao động như cách tư duy của Hồ Biểu Chánh. Nhưng phong cách và văn chương của Đoàn Giỏi lại mạnh mẽ, gai góc, cuồng nhiệt như chính cá tính của ông.
Mặc dù trong thời kỳ đầu, con đường nghệ thuật đã mở lối chào đón Đoàn Giỏi, nhưng ông lại rẽ lối khác. Công việc mà ông quyết định chọn và tìm đến hoàn toàn không liên quan gì đến nghệ thuật. Hội họa và văn chương, Đoàn Giỏi đã gác sang một bên. Đó là năm 1947, Đoàn Giỏi về làm Trưởng Công an huyện Châu Thành. Thời gian này, ông phải phụ trách mười xã đang rơi vào thời kỳ khó khăn về mặt kinh tế cũng như tinh thần của người dân do chiến tranh gây ra. Năm 1948, Đoàn Giỏi được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương và giữ chức Phó Ty Tuyên truyền tỉnh Định Tường (nay thuộc tỉnh Tiền Giang). Cùng thời gian này, Đoàn Giỏi kiêm luôn vị trí chủ bút tờ báo Tiền Phong của Mặt trận Việt Minh Mỹ Tho. Được hai năm, Đoàn Giỏi chuyển công tác đến nơi khác, đó là năm 1950, ông chuyển sang làm Phó Ty Công an tỉnh Rạch Giá (nay thuộc tỉnh Kiên Giang).
Năm 1951, Đoàn Giỏi về công tác tại thường vụ Hội Văn nghệ Nam bộ và là thành viên của Hội đồng biên tập tạp chí Lá Lúa. Công việc này đã nung nấu và khơi dậy vốn văn chương tiềm ẩn nơi Đoàn Giỏi. Ông đã cầm bút trở lại. Đề tài về con người và đất Tiền Giang luôn được Đoàn Giỏi chú ý và quan tâm. Những công việc thuộc về ngành hành chính, Đoàn Giỏi gần như không mấy mặn mà nữa. Công việc viết lách luôn thúc giục ông gần gũi với người dân lao động, với hoàn cảnh xã hội thời ấy.
Năm 1954, Đoàn Giỏi tập kết ra Bắc. Tác phẩm "Đất rừng phương Nam" đã thai nghén và ra đời tại miền Bắc. Dân gian thường bảo, văn là người. Phải chăng vì lẽ đó, những áng văn chương của Đoàn Giỏi như chính cá tính của ông. Một Đoàn Giỏi phóng khoáng, hào hiệp và luôn luôn sâu nặng với miền đất phương Nam. Tác phẩm của Đoàn Giỏi thường đậm chất nghĩa khí và hào hùng. Dù có sinh sống, công tác, hoạt động ở đâu, ông cũng luôn luôn hướng về vùng đất Nam bộ. Bản chất Đoàn Giỏi lại là người rất chịu khó tìm tòi và hay nghiên cứu mọi chuyện một cách ngọn ngành. Cho nên, văn của ông thường rất góc cạnh, gồ ghề, nhưng cũng chân tình và hồn nhiên như chính miền đất hoang sơ và hào phóng của miền Tây Nam bộ. Nhà thơ Chế Lan Viên đã nhận xét : Đoàn Giỏi là một trong những người đầu tiên truyền bá ngôn ngữ Nam bộ hiện đại qua những tác phẩm của mình…
Không riêng gì giọng văn, cuộc đời thường của Đoàn Giỏi cũng vậy, rất Nam bộ và đặc sệt miền Tây Nam bộ. Mọi thói quen hàng ngày, Đoàn Giỏi vẫn giữ đúng phong cách Nam bộ, dù sống trên mảnh đất miền Bắc hay ở đất trời châu Âu. Năm Kỷ Tỵ 1989, Đoàn Giỏi qua đời với bao giấc mộng chưa hoàn tất tại Bệnh viện Thống Nhất, Thành phố Hồ Chí Minh.
Hiện nay ở Châu Thành – Tiền Giang, tên tuổi của nhà văn Đoàn Giỏi đã gắn liền với trường Trung học cơ sở Tân Lý Tây – huyện Châu Thành – tỉnh Tiền Giang. Còn về cuộc đời riêng, Đoàn Giỏi đã trải qua hai cuộc hôn nhân. Thế nhưng ông chỉ có một người con duy nhất với người vợ đầu tiên, đó là Đoàn Quang Viễn. Đoàn Quang Viễn sinh năm 1958, sinh sống tại Tân Hiệp – Châu Thành – Tiền Giang, bên cạnh nền nhà mà ông nội Đoàn Văn Vàng đã hiến cho cách mạng. Ông Đoàn Văn Viễn cũng có một người con trai duy nhất, đó chính là Đoàn Quang Minh, sinh năm 1980. Rất tiếc là số phận của Đoàn Quang Viễn cũng rất ngắn ngủi như cha mình, ông đã ra đi vào một ngày cuối năm của năm 2005 tại Bệnh viện Đa khoa thành phố Mỹ Tho – tỉnh Tiền Giang, do tai biến mạch máu não.
II. SỰ NGHIỆP VĂN CHƯƠNG
Năm 1954, Đoàn Giỏi tập kết ra Bắc. Ông đặt chân lên mảnh đất mới này chưa đầy một năm (1955), độc giả Hà Nội đã biết đến tên tuổi Đoàn Giỏi qua bài ký "Đèn tôi bay về Lục Hồ Chí Minh" với một phong cách mới lạ, riêng biệt. Rồi chẳng bao lâu sau, bạn bè đồng nghiệp, độc giả xa gần lại chú ý đến Đoàn Giỏi sự chững chạc và phong cách vững vàng trong sáng tác qua nhiều truyện ngắn. Và ông đã tạo một sự ngạc nhiên cho người đọc qua hàng loạt tác phẩm thú vị, ly kỳ về miền đất phương Nam. Bởi những tác phẩm ấy đầy chất Nam bộ, hài hòa dưới ngòi bút tài hoa và sắc sảo. Từ những tác phẩm đầu tay như "Cây đước Cà Mau", "Ngọn tầm vông"… , nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã đánh giá khá cao về tài năng của Đoàn Giỏi : Thấy có vảy, có cựa, có mã rồi đấy. Đứng được trường chọi, cậu còn phải nỗ lực cố gắng, mất nhiều công sức nữa đấy. Phải chăng từ những lời động viên đó của Nguyễn Huy Tưởng, Đoàn Giỏi như đã tìm được nguồn đồng cảm, sự chia sẻ từ các bậc đàn anh trong nghề nghiệp của mình. Rồi nhờ những lời động viên của thế hệ đàn anh, Đoàn Giỏi như được chắp cánh, niềm đam mê thúc đẩy ông một cách mạnh mẽ để lao vào con đường văn chương, chọn văn chương để làm điểm tựa. Ông còn tìm đến văn chương như sự chia sẻ, động viên trong những ngày sống xa quê. Và hơn thế nữa, Đoàn Giỏi đã chọn con đường văn chương để làm sự nghiệp trọn đời mình. Khi Nguyễn Huy Tưởng qua đời, trong bài viết "Nguyễn Huy Tưởng – một người thầy – một người bạn – một người anh", Đoàn Giỏi đã bộc bạch cảm xúc : Điều anh luôn nhắc nhở tôi là chú trọng sắc thái địa phương nhưng đừng có abusé (lạm dụng) ngôn ngữ, luôn dặn dò tôi phải chịu khó ghi chép hàng ngày và nghiêm túc học tập. Nói chuyện công việc nghề nghiệp, anh phân tích thế nào là cá tính và tính cách nhân vật, thế nào là đột phá…
Chỉ là những lời động viên của người anh đồng nghiệp, Đoàn Giỏi đã chọn làm hành trang và mang theo suốt quá trình sáng tác. Điều này chính là cái hay của Đoàn Giỏi. Dù là một người mạnh mẽ, bộc trực, quyết đoán, nhưng ở Đoàn Giỏi, ông luôn lắng nghe và tự học, tự trau dồi kiến thức cho mình. Đặc biệt, Đoàn Giỏi luôn ghi nhận những lời góp ý của đồng nghiệp và những lời khen chê của độc giả. Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng viết về Đoàn Giỏi : Khá may cho Đoàn Giỏi là sau ba mươi năm, nhiều bài của anh đọc lại, vẫn chịu được. Kỹ thuật chăng? Tài năng chăng? Chớ về thông tin, về chất liệu thì quả là vừa vậy, vừa không phải vậy. Năm Căn tôi đã đến rồi, cây đước tôi đã thấy rồi, bà má Năm Căn và hàng ngàn bà má khác tôi đã gặp rồi, thế sao đọc các bài văn kia tôi vẫn xúc động. Có gì ở đằng sau chất liệu kia, trên hay dưới, hay bạt ngàn chung quanh chất liệu kia, vừa là nó vừa không phải nó. Cái gì vậy? Tôi muốn nói đó là tâm hồn, đó là tấm lòng, đó là sự xúc động chân thành của tác giả. Cái đó giúp cho chất liệu đi qua mà không chìm, không tan rã trong thời gian. Ba mươi năm! Cố nhiên là người đọc ngây thơ, cả tin ngày ấy là tôi nay đã tinh khôn, láu lỉnh, láu cá nữa, không ai dễ lừa mình như trước. Nhưng khi tác giả đã chân thành lúc viết thì tất cả sự láu khôn của người đọc hóa thành không có chỗ đứng. Họ viết bằng trái tim trần và mình phải đọc bằng trái tim trần. Những độc giả trí tuệ ở các đô thị hiện đại ngày nay xúc động trước các câu dân ca trên núi cao thời xưa là theo quy luật đó…
Không riêng giới chuyên môn, bất cứ một ai khi đọc văn của Đoàn Giỏi, họ đều như rơi vào tâm trạng đọc những trang lịch sử mang đậm chất văn hóa đặc trưng của một vùng đất. Bởi văn của Đoàn Giỏi thường ngồn ngộn nguồn tư liệu và vốn sống có được từ tác giả. Cũng điều đó, nhà thơ Xuân Diệu đã dâng trào cảm xúc khi đọc truyện ngắn "Cây đước Cà Mau" của Đoàn Giỏi. Dù chưa đến Năm Căn bao giờ, nhưng Xuân Diệu làm bài thơ "Bà má Năm Căn" rất hay, rất cảm động là do những hình ảnh ấy có sẵn trong bức tranh của truyện ngắn Cây đước Cà Mau của Đoàn Giỏi. Cái hay ở đây là nguồn cảm xúc rất thật, rất sống động từ Đoàn Giỏi đã tạo nên một nguồn cảm xúc mới cho Xuân Diệu, để có thêm tác phẩm mới một cách độc đáo, dù ở một thể loại văn học khác.
Những năm tháng đất nước ta vừa chiến thắng Điện Biên Phủ, vừa đuổi xong giặc Pháp, lập lại hòa bình với một nửa Tổ quốc là miền Bắc sống trong độc lập tự do, những người con ưu tú của miền Nam đã tập kết ra Bắc, trong đó có Đoàn Giỏi. Ông ra Bắc không chỉ mang theo lý tưởng của người thanh niên miền Nam, mà còn mang theo cả sông núi, con người, cây cỏ, chim muông, khí hậu, ngôn ngữ miền Nam để góp phần vào kho tàng văn chương của cả nước. Ở truyện ngắn "Cây đước Cà Mau" của Đoàn Giỏi, những chi tiết về bà má Năm Căn định gửi mắm tép ra cho cụ Hồ, gửi cây đước miền Nam ra trồng giữa hồ Hoàn Kiếm rất sắc sảo. Phải chăng từ những câu chuyện trên, Đoàn Giỏi như gửi gắm tình cảm của mình đến con người và mảnh đất phương Bắc. Bởi tất cả hình ảnh trong "Cây đước Cà Mau" đều rất sống động, chân tình như người dân Nam bộ. Điển hình như đoạn văn mà Đoàn Giỏi đã viết về bà má Năm Căn chuyện trò với một đồng chí giao liên :
– Tôm cá thì đủ thứ, thiếu gì! Tôm càng xanh bằng cườm tay, tép xà búi bằng ngón chân cái, tép bạc lưới về, đổ đống như đống lúa cả trăm giạ. Cá dứa thì có mùa, thuộc loại ngon nhất ở đây. Thịt mềm ngọn xớt. Nấu canh chua ngon lắm. Mỗi tháng có hai ngày ba khía hội. Nước rong, ba khía leo bám đầy lên rễ, lên thân cây đước, cây vẹt. Ba khía làm mắm, chở lên tới Mỹ Tho, Sài Gòn. Cua biển cũng nhiều lắm. Các trại đáy kéo lên, chỉ lấy cá tép. Cua cho ai bắt thì bắt. Thường thường thì đổ xuống sông lúc không có người mua. Cua lột tháng tám mới ngon, và thịt chắc nhất. Bụng đầy gạch son. Lớp luộc, lớp chiên bột, lớp làm mắm nhận trong muối hột. Chừng nào ăn, lấy ra, rửa sạch, tán nhuyễn, trộn với đường, mỡ, tỏi ớt, chấm với tôm nướng, thịt luộc, ăn rau sống bánh tráng không gì bằng. Tao nhắc còn nhểu nước miếng đó thì bây biết. Còn nói gì sò huyết, vọp, nghêu, cứ nước kém chèo thuyền ra lấy bồ cào, cào đổ lên chớ hơi nào mà bắt…
Những truyện ngắn khác, Đoàn Giỏi vẫn thể hiện theo cách riêng của mình như vậy. Cốt truyện của ông thường sâu lắng, sinh động. Những truyện "Người tù chính trị năm tuổi", "Vượt tuyến"… Dù là những câu chuyện sâu nặng về hình ảnh người lính, nhưng thấp thoáng đâu đó, người đọc vẫn nhận ra phong cách riêng của một nhà văn, của rừng, của đất phương Nam. Ở ông, phong cách ấy luôn mang đậm chất tư liệu, vốn sống, sự từng trải của người cầm bút. Cũng giống như những nhà văn khác, Đoàn Giỏi luôn đi tìm cái mới trong sáng tác. Vì vậy, những tác phẩm Đoàn Giỏi bao giờ cũng mới lạ, hấp dẫn và độc đáo đối với người đọc. Cho dù những tác phẩm ấy thường là những nỗi khát vọng, hoài bão, ý chí của những con người đang sống trong chiến tranh. Nhưng ở tận chiều sâu tư tưởng của mỗi tác phẩm, sự giải thoát của nhân vật do chiến tranh tạo ra đều được ông chú trọng và đặt lên hàng đầu.
Riêng tác phẩm "Cuộc truy tìm kho vũ khí" (1962) của Đoàn Giỏi đã được dịch sang tiếng Hungary. Tác phẩm đã được Đoàn thanh niên Hugary tổ chức "Cuộc thi tìm hiểu và phân tích những nhân vật trong tác phẩm". Từ cuộc thi ấy, tên tuổi Đoàn Giỏi được nhắc đến như một tác giả của những câu chuyện dành riêng cho lứa tuổi mới lớn ở nước ngoài.
Những tác phẩm trước đây của Đoàn Giỏi gần như có cùng một chủ đề. Bởi chiến tranh là nỗi đau tột cùng của người dân cũng như của tác giả. Cho dù ra đời trong hoàn cảnh chiến tranh, nhưng những tác phẩm ấy đã để lại khá nhiều ấn tượng về cuộc sống, về con người, về quê hương đất nước cho bạn đọc qua nhiều thế hệ : "Cá bống mú" (1956), "Hoa hướng dương" (1960)… Ở "Ngọn tầm vông" lại là một ngôn ngữ và như chính giọng điệu của Đoàn Giỏi. Ông viết văn như kể chuyện bằng ngôn từ văn viết. Chính vì vậy, tiến sĩ Phạm Văn Tình – tác giả bài viết "Mái đình – nét đẹp trong hồn quê Việt Nam" đã cảm nhận rằng : Nhà văn Đoàn Giỏi, trong bài tùy bút "Ngọn tầm vông" đã có những dòng thật cảm động, mô tả người miền Nam tập kết ra Bắc, ngồi trên thuyền nhìn lại xóm làng của mình, đứng mãi trên boong chờ đợi phút qua ngang nhà. Làng tôi xanh ngắt những vườn chuối. Mái đình cháy hơn một nửa, nhô ra khỏi ngọn cây. Bờ tầm vông thấp thoáng, hoa tầm vông hoe vàng trong ánh nắng một chiều thu…
Tiểu thuyết "Người thủy thủ trên hòn đảo lưu đày", Đoàn Giỏi đã viết về vị cố Chủ tịch Tôn Đức Thắng trong những tháng ngày bị giam giữ ở Côn Lôn. Cũng với một nguồn tư liệu dồi dào, một nguồn cảm xúc tột đỉnh, Đoàn Giỏi đã viết rất tài tình và chân thật. Được biết, khi đặt bút viết tác phẩm này, Đoàn Giỏi đã nhiều lần gặp Bác Tôn. Những lần gặp gỡ ấy là những lần thu thập tư liệu một cách thuyết phục, kính nể, thận trọng trước một vị Chủ tịch Nước kiên trung, anh dũng nhưng cũng rất chan hòa và nhân ái. Ngoài ra, Đoàn Giỏi còn viết thêm quyển hồi ký "Từ đất Tiền Giang". Tác phẩm này lại nói về một khía cạnh khác. Đoàn Giỏi gần như ghi chép lại một cách chính xác về hình ảnh người phụ nữ bất khuất kiên trung ở đất Tiền Giang. Bà đã giành nhiều thắng lợi trong những lần chỉ huy chiến đấu với giặc. Người phụ nữ ấy chính là bà Nguyễn Thị Thập, một người đã có công lớn đối với những chiến công trong cuộc Nam kỳ khởi nghĩa. Nhưng tiếc thay, hai tác phẩm "Người thủy thủ trên hỏa đảo lưu đày" và "Từ đất Tiền Giang" rất hay và giá trị như vậy đã thất lạc. Ngày nay, độc giả gần như không biết đến hai tác phẩm này. Một phần do trước đây việc in ấn ở các tỉnh lẻ không phổ biến, một phần do chiến tranh nên đã thất lạc bản thảo.
(Còn tiếp)
Huỳnh Mẫn Chi – Theo SCL