Buổi chiều, trong xóm người Hoa Chợ Lớn. Ông Danh chủ nhà mời chúng tôi ăn cơm, chúng tôi nhận lời dù biết anh không chuẩn bị thức ăn mời khách.
Rời một khu chung cư giải toả thuộc quận 11, gia đình ông Danh dọn về xóm lao động người Hoa này tạm cư với giá bốn triệu đồng một tháng. Dân ở đây chỉ sử dụng tiếng Quảng Đông. Ông kể: “Người em họ từ Phan Rang vô ghé ở tạm, ngủ một đêm, sáng ngày gặp tôi nói: “Ở nhà anh ngủ dậy lơ mơ tưởng như đang ở Hong Kong!” Chung quanh nhà ông có cái cơ sở sản xuất chân chống, baga xe gắn máy sát nhà tới khuya mới chịu nghỉ việc, xe hủ tiếu bò viên đối diện mờ sáng thì dọn hàng, bà già ở sát nhà bán hủ tiếu thì ba lần trong ngày đốt nhang mở đĩa tụng kinh tiếng Hoa, các bàn cờ tướng, cá ngựa, sòng bài nhỏ của đám đàn ông, thanh niên, con nít vào cuối giờ chiều là vô cao điểm ăn thua…
Ông Danh tự tay dọn cơm, bàn ăn là cái bàn tròn có thể xếp lại nếu chỉ sử dụng một góc. Buổi chiều tháng tư, mỗi căn nhà trong hẻm Sài Gòn – Chợ Lớn là một cái nồi hơi hấp thịt người. Chúng tôi ba người, cộng với ông chủ nhà nữa là bốn, nhưng phải mở hết ba cái quạt máy trong một khoảng không chưa tới ba mét vuông.
Trên bàn ăn, cái tô bự nhất đựng món canh rau muống nấu tôm khô, cái dĩa để cạnh có ba khứa cá lóc kho, cái tô bự thứ nhì đựng cải chua và cà pháo, cái dĩa thứ nhì đựng miếng hột vịt chiên, hai cái chén nhỏ, một đựng nước mắm, một đựng mắm tôm, cả hai đều đỏ màu ớt xắt. Ông Danh mời chúng tôi ăn cơm, ông nói: “Trời nóng quá, chỉ có mấy thứ này mới nuốt nổi”. Ông Danh có cha là người Bắc di cư, lúc ông già còn sống tôi nhớ ông nói giọng Bắc rặt. Lúc này, nhìn vào mâm cơm của ông, những món ăn dành cho một bữa ăn vào cái ngày nóng đến mức chỉ uống nước làm no, những món thuần Bắc này, phải chăng vẫn còn nguyên năng lượng kích thích khẩu vị cho một người đàn ông năm mươi tuổi sinh ra ở Sài Gòn và chỉ muốn mỗi một điều mình là người Sài Gòn.
Một cậu trẻ vừa gắp một trái cà pháo đưa qua chén mắm tôm vừa nói: “Em có một cô bạn gái, đến nhà cô ấy dùng cơm, mới gắp một trái cà pháo, ông bố của cô bạn gái gật gù: “Có thế chứ, anh cơ bản đấy”. Nghe hai tiếng cơ bản làm quả cà thêm vị lạ”. Ông Danh cười cười, cầm cái vá múc canh lên, quay qua hỏi Chí, một người bạn cũng tuổi với ông: “Chí! Cái này kêu là gì?”. Chí nói, bằng một thứ giọng Bắc – Sài Gòn nhè nhẹ: “Là cái muôi chứ còn là gì” Chị Nguyệt, ngồi cùng nói: “Chí nói tiếng Bắc lạ thiệt, nói giọng như Chí phải là giọng Bắc – Sài Gòn không? Chí nói: “Em đâu đã biết, có nhìn ra giọng nói mình bao giờ đâu mà biết, gia đình bố mẹ nói sao thì nói thế”. Danh nói: “Thì dân khu chợ Ông Tạ, Gò Vấp, quận 8 Bình Hưng… nói chung là dân Bắc di cư, không nói giọng Bắc – Sài Gòn chứ là gì”.
Nếu cho rằng thời gian có huyền năng sinh – trưởng thì tính từ năm 1954, cũng như tính từ năm 1975 đến nay, những gia đình nề nếp người Bắc vào Nam sống có đủ thời gian để sinh ra một thứ giọng khác, có thể gọi mà không sợ trật là giọng Bắc – Nam hay địa phương hơn là Bắc – Sài Gòn. Nhưng còn cái khẩu vị gốc nằm sâu đâu đó trong vùng tâm thức của những người Bắc sinh ra ở miền Nam thì sao! Tôi gắp một đũa hột vịt chiên ăn và nói: “Danh chiên hột vịt ngon thiệt, vợ tôi không chiên được như vầy”. Chị Nguyệt nói: “Cho nhiều dầu vô thì được chớ khó gì”. Ông Danh nói: “Không phải đâu, người Bắc gọi là trứng rán, phải biết rán trứng mới được”. Chí nói: “Đúng đấy chị. Tụi này là dân nhậu, chán mồi thực đơn nhà hàng, thường muốn kêu thêm món trứng rán đưa cay nhưng nhiều tay bếp, không phân biệt được rán với chiên, nói gì đến làm món trứng rán”.
Khi vừa lửng bữa cơm, ông Danh kêu: “Để tôi ra trước cửa mua bò viên về ăn thêm, còn một chai Nếp Mới sản xuất ở Hà Nội, ai uống được thì làm vài chung”. Vài phút sau ông đã về, vừa đặt xuống ông vừa kể: “Tại ngán mỡ nên tôi không mua xí quách, bò viên ở đây là của bà chủ nhà đối diện tự mua thịt về xay rồi quết bằng tay trong cái cối đá. Thấy người ta làm thiệt cực, hỏi sao không mua thịt viên bỏ mối về bán, làm chi cho cực. Họ nói: “Ông tổ ngộ qua đây bán bò viên rồi truyền cho cái nghề, làm quen rồi, bán cái đó đâu phải bò viên, mấy đời nhà ngộ chỉ bán bò viên không bán bột viên”. Tô bò viên mà ông Danh mang về đúng là ngon, từng viên thịt giòn mềm và rất thơm.
Sài Gòn – Chợ Lớn có những bữa cơm, một tô bò viên bình thường vậy đó. Giữa một thời đại được khoa trương là hội nhập toàn cầu, với biết bao những háo hức – vu vơ, ham muốn – tha hoá mà trong cái tiết trời nhiệt đới trái tính, chỉ một bữa ăn giản dị thường ngày, với những món ăn quá đỗi quen thuộc, những mẩu chuyện nói qua nói lại lúc ăn, vậy mà đã đánh thức vừa đủ gốc cội văn hoá tầng sâu. Sống ở Sài Gòn – Chợ Lớn, ai cũng được cái không gian hài hoà mà vẫn hồn ai nấy giữ.
Theo Trần Tiến Dũng – SGTT