Mấy anh em chúng tôi họp bàn. Mời bằng được các nhà văn đang công tác trong quân đội. Họ lên đây trực tiếp truyền đạt kinh nghiệm viết văn của mình. Đọc thẩm định các tác phẩm thơ văn cho các em các cháu. Chúng tôi vốn là lính. Nên có am hiểu chút ít về cuộc đời anh bộ đội Cụ Hồ. Đã làm lính, dù chỉ một ngày, một năm, họ đã sống thực sự chân thành và tin yêu nhau suốt đời. Đấy là trường học vĩ đại nhất, trong các trường học, dành cho con người bắt đầu trưởng thành.

Trong đoàn gồm có nhà văn Lê Lựu, nhà văn Chu Lai, nhà thơ Nguyễn Đức Mậu và nhà thơ Trần Đăng Khoa. Toàn các ông nhà văn nhà thơ cỡ mét. Họ đã và đang rất nổi đình đám trong làng văn Việt đương đại. Có thể nói, đây là những gương mặt sáng giá, tiêu biểu nhất. Đồng thời họ là những nhà văn giản dị, tếu táo, vui nhộn, dễ gần nhất. Họ xuất hiện ở một tỉnh miền núi, xa trung tâm thủ đô đến cả ngày đường, không thể xem như  cơm tẻ nước lã được.

Khỏi nói lời đồn có đến tám chín chân chạy nhanh ra sao. Tin có nhà thơ Trần Đăng Khoa trong đoàn nhà văn lên Cao Bằng. Nó làm sôi lọt bọt nước sông Bằng sông Hiến. Xôn xao rau cá khắp chợ Xanh, chợ Cây Ba, chợ Cây Năm. Nhất là đám thanh thiếu niên, chúng từng đọc từng thuộc làu làu các bài thơ nổi tiếng của Trần Đăng Khoa: Từ góc sân nhà em; Góc sân và khoảng trời; Khúc hát người anh hùng; Chân dung và đối thoại…

Là nhà thơ nổi tiếng từ năm tám, chín, mười tuổi. Người từng tốt nghiệp Trường Viết văn Nguyễn Du; Trường Viết văn M. Gorki… Và là người gây ra nhiều chuyện thắc mắc cho bạn đọc. Hình như Trần Đăng Khoa đang hoạt động trong ngành tình báo? Hay cái khoản sung sướng có vấn đề. Không thế tại sao ngần này tuổi mà nhà thơ chưa lấy vợ. Nghe đâu, Khoa cũng chưa từng yêu người con gái xương thịt nào. Tôi nhớ, có lần, Khoa từng ví người yêu là con chó đá. Nói xong, mặt hắn vênh lên như ngói máng quá lửa.

Tôi rất thích một câu nói về Khoa của Lê Thiếu Nhơn: Nói gì thì nói, làng thơ Việt mà thiếu cái dáng thấp đậm của Trần Đăng Khoa thì kể cũng buồn. Tôi ngắm nghía cái dáng đi của Trần Đăng Khoa nhiều năm, và nhận ra một sự thật: khi bước lảo đảo thì anh là một thi sỹ  đích thực, còn khi nào bước huỳnh huỵch thì anh là một cán bộ chân chính.

Trên con đường quốc lộ 3 vào cửa ngõ thị xã ngày ấy, xe phải qua trước cổng Trường Trung học Sư phạm tỉnh (bây giờ là trường Cao đẳng Sư phạm). Tiếp đến trường cấp I, II xã Đề Thám. Qua cầu sông Hiến. Đi lòng vòng một hồi, rồi mới vào trong lòng phố cổ Mục Mã.

Chiều hôm đó, có một chiếc xe bóng loáng, sang trọng, màu đen biển đỏ. Nó chở đoàn nhà văn đang từ Hà Nội lên, vun vút lao nhanh trên quốc lộ 3. Khi gần đến cổng trường Sư phạm, tài xế cho xe chạy chậm lại. Chậm nữa. Thật chậm. Chậm như rùa bò. Vì hai bên đường có rất nhiều học sinh, sinh viên tay cầm khăn trắng vẫy.

Ai cũng mặc đẹp. Mặt mũi người nào cũng cười tươi như hoa cỏ mùa xuân. Có người can đảm tiến sát ra lòng đường. Họ muốn được nhìn rõ mặt từng người. Họ háo lắm rồi. Xem cái người nhà văn được làm bằng gì mà sao nó tài thế. Giỏi thế. Nổi tiếng thế.

Các nhà thơ nhà văn bỗng thấy cay lên sống mũi. Tình cảm nồng nhiệt có phần hơi thái quá của tuổi trẻ Cao Bằng. Có lẽ chưa ở đâu tình người nóng sốt lên nhanh như thế. Nhìn tóc thì biết. Chúng phần phật cháy.

Xem ra người nổi tiếng xưa nay cũng khổ, chứ chả sướng gì. Ở đâu. Ngồi với ai. Vắt chân chữ ngũ đàng hoàng hay nhổ râu vặt. Bất kể họ đang làm cái gi gỉ gì gi cũng bị người ta để mắt theo dõi. 

Thường ngày, mồm mép nhà văn lép nhép như lửa bén trôn chảo. Đó là cái món nói. Nói nhanh như đạp máy khâu. Nói lâu, nói dài như nước suối chảy. Không thấy dứt bao giờ. Nói nhiều đến nỗi, sái cả quai hàm. Nói hăng đến nỗi, lưỡi không kịp mọc da non. Làm cho người nghe xung quanh điếc đặc cả hai lỗ mũi. Nói. Chính xác là "đặc sản" của mấy ông văn nghệ. Nhưng lúc này, bỗng dưng hai miếng môi đặt nhờ trên mặt họ lại khép kín. Nhà văn nhà thơ gì mà hiền lành một cách khó tin, khó hiểu thế nhỉ.

Nhà thơ Trần Đăng Khoa cuộn người lại như một con phjẳm (con sâu đá). Hắn cố giấu mình vào góc trong cùng. Nhưng vẫn để lòi ra cặp kính trắng. Cặp kính mở to hết cỡ để nhòm tổng thể gái Tày Nùng. Hắn cực tinh quái. Rồi hắn cho tay trong túi quần. Chem chép cái miệng mỏng như cật nứa. Toàn cốm. Ông thì… nhá tuốt. Chín chén chưa say.

Ngày cuối cùng của trại viết cũng đã tới. Buổi chiều hôm đấy, Hội Văn nghệ mời đại diện các cấp các ngành trong tỉnh đến dự báo cáo tổng kết. Cuối buổi, có tổ chức liên hoan tiệc mặn. Chủ nhà bịn rịn chia tay các nhà văn, nhà thơ trong đoàn và các trại viên.

Tiếng cười to, vang như chiêng ướt. Dường như làm vỡ cả những miếng kính lắp trên cánh cửa ra vào. Chẳng ai nghe được câu chuyện gì mà vẫn kể. Tiếng cốc chén bát đũa lanh canh, toóc taách, lách lách. Tiếng mở bia chai phụt phẹt nổ ra liên tiếp. Liên tiếp những tiếng mướt môi từ nhà hàng Giao tế Ủy ban tỉnh. Những âm thanh mặn miệng, vui tai, đỏ mắt vọng tràn ngập xuống phố Thầu, phố Cũ. Nhiều người đi đường buông tay ga, đạp chân phanh đứng lại. Họ giỏng đôi tai, nhướng lông mày lên, nghe ngóng.  Râu hỏi ria xem con cái nhà ai mà cưới xin to thế nhỉ, hoành tráng thế nhỉ.

Mâm cỗ các nhà văn ngồi trở thành tâm điểm của cuộc vui. Mấy cô văn công mông ngực thưỡn thẹo. Lần lượt từng người, từng người nhún nhín đi. Mồm thì hát tặng. Mắt thì cười. Tay thì chéo chén. Chúm môi chuốc rượu. Những làn điệu dân ca Tày Nùng thoát ra từ những nụ miệng tròn xinh. Môi như người cùng thơm nức. Làm cho cánh nhà văn tò mò thích thú. Họ thực sự xúc động. Nhìn thì biết. Các anh các chú rân rấn mắt. Họ gưỡng mộ trước vẻ đẹp văn hóa dân gian Tày Nùng. Thế là cứ chén thù chén tạc đều đều.

Người Cao Bằng lúc nào cũng gọi uống rượu là kin lẩu. Trong tiếng Tày kin là ăn, lẩu là rượu. Kin lẩu là ăn rượu. Ăn rượu phải có người mình thích ngồi cùng mâm. Bởi nó hạp nhau lắm. Ăn rượu nghĩa là anh không chỉ uống. Không chỉ nhắm. Mà phải được nghe tiếng lòng rì rầm của nhau. Cảm được cái tình nồng thắm của nhau. Xắn được miếng tim, gan, phổi phèo của nhau. Ăn rượu nghĩa là cả tai, mắt, da, thịt, tóc, râu… cùng một lúc được hưởng cái sự sung sướng. Nhưng sung sướng nhất là làm cho người mình yêu say bí tỷ. Say bét nhè. Say như cối đá lăn. Say như quả bí ngủ treo. Để rồi tự tay mình được chăm sóc, phục vụ, lau chùi, tắm táp cho bạn.

Nhà thơ Trần Đăng Khoa bị các cô gái trẻ đẹp, bao vây vòng trong vòng ngoài. Tiếng đồn về anh Khoa thì khá lắm rồi. Thế mà bọn em chẳng biết nhà thơ có yêu đương lăng nhăng lít nhít gì không. Em mời anh một chén. Úi giời! Chết chết chết . Một chén thì nhằm nhò gì thím ơi. Được nhé. Nhớ nhé. Được chứ sao không. Chín chén anh đây còn chưa biết say là gì thím ạ. Tôi nghĩ bụng quả này chết rồi Khoa ơi. Chú mày phét không đúng lúc đúng chỗ rồi. Đúng thế. Khoa trở thành cái rốn của cuộc rượu.

Tới tấp những ngón tay búp măng cong cong tạo dáng điệu đà. Tay này cầm chén. Còn tay kia nâng cằm Khoa lên dốc rượu. Hệt như một đàn ong vừa bị ai trêu tức. Khoa cuống cuồng tối tăm mắt mũi chối từ, nhưng vẫn không được. Bằng mọi cách, họ bắt anh chàng tài hoa chưa vợ này phải uống. Không uống không được. Gái Cao Bằng có võ đấy. Nhìn đây này. Sức vóc ấy cứ ngồn ngộn, cứ núng nính. Nó mọng căng như hai trái bóng bay. Nó nằng nặng lủng lẳng như hai trái bưởi vàng. Anh nào lớ xớ dụng vào là chết liền. Không khéo họ ghìm đầu úp mặt Khoa vào những bộ ngực đồ sộ kia. Nó ngột hơi mất. Tôi bảo Khoa rằng, người Tày họ sống rất thật. Mày mà phét lác như ở Hội Nhà văn thì chỉ có chết mất ngáp. Thì y như rằng. Nhà thơ say quá. Say không thở được. Tôi biết tửu lượng Khoa rồi. Chỉ tại cái mồm làm khổ cái thân thôi mà, Khoa ơi.

Ba bốn năm cô gái trẻ dìu Khoa về phòng, đóng chặt cửa lại. Họ chặn không cho gió máy lách vào. Rồi lần lượt họ cởi áo ngoài, đến áo trong. Cởi quần dài, rồi đến quần đùi. Trông Khoa lúc này trắng muốt, chẳng khác bao bột mỳ nhào nước. Có cô còn táo tợn, lấy tay huơ qua rồi huơ lại vùng dưới rốn, xem xem cái khoản kia của Khoa nó thế nào. Sao mọi người cứ đồn… Úi giời! Cái chỗ ý rắn đanh nhọn hoắt như một con ốc núi. Con ốc núi vừa no phe lè ra cả ba chiều. Con ốc núi bèn nghiêng bên này, lắc bên kia một cách dễ ợt. Giời ạ! Thế có phí của tôi không? Cho em xin tý thần đồng đi… Khoa.

Vẻ mặt Khoa lúc này đang tái dại. Một lát nữa nứng nừng đỏ như tôm càng luộc. Có cô rúc rích hý húi pha nước chanh cho thật nhiều đá. Còn cô khác, nhóng nhánh chạy chân chó xuống bếp. Cô xin cuống lá giong, mang về giã dập cho Khoa ngậm. Nửa tiếng sau, Khoa mở được mắt,  tỉnh hẳn. Em hãi các bác rồi. Bác cứ tà tà.

Món dưa góp (có người gọi muối xổi) mà tôi từng được Khoa chiêu đãi hồi học ở Trường Nguyễn Du. Đấy là món ăn mà người Tày tôi không quen dùng. Dân miền núi chúng tôi chỉ thích thức ăn nóng sốt. Càng nhừ càng tốt. Ăn thứ này chỉ sợ nó hăng, cay vì không qua lửa. Rau hoàn toàn sống sít. Ăn vào thì ngại đau bụng. Nhưng quả thật, Khoa đã làm tôi sững sờ vì món dưa góp vô cùng ngon, mát và bổ dưỡng.

Miếng thứ nhất, tôi còn dè chừng, cắn nhèm nhẹp bằng răng cửa. Vừa nhai vừa thăm dò. Miếng thứ hai đằm hơn một chút. Thấy nó giòn. Nó bắt đầu chua chua ở đầu lưỡi. Mằn mặn ở cuống lưỡi. Ngòn ngọt trong cổ họng. Chả thấy mùi hôi tanh của lá xanh đâu nữa. Tôi tiếp tục gắp. Gắp sau nhanh hơn gắp trước. Gắp như chân gà mắc tóc rối. Làm hắn phải e hèm lên tiếng bác cứ phải tà tà phần em với chứ. 

Cảnh sinh viên nghèo thì ở đâu, bao giờ cũng nghèo. Nhưng vui. Họ chỉ đủ tiền mua rau dưa với vài ba bìa đậu. Cải bắp mua từ chợ Thành Công về. Khoa rửa sạch, để ráo nước, rồi thái chỉ. Tôi thấy Khoa say mê với món dưa góp như làm thơ. Hắn ngồi xổm, tỷ mẩn ngắm nghía từng chiếc lá. Chiếc lá như mặt người từng chịu nhiều khổ đau. Khổ đau hiện lên sần sùi. Lồi lõm. Rách rạc. Nhưng không chịu nát. Khoa thái rau như sợ làm nó đau. Nên Khoa dùng dao bài mài thật sắc. Xẹt một cái, lá rau không kịp kêu rên ai ái. Hồn đã lìa khỏi xác. Những sợi rau ngon mắt xếp đều tăm tắp. Sung sướng nằm chồng đè lên nhau, trong một chiếc liễn Hải Dương màu cháo lòng. Mắt trước mắt sau, hắn bắt đầu trộn gia vị. Có một tý muối. Một tý mắm. Một tý dấm thanh, hay nước cốt chanh. Một chút đường kính trắng. Vài củ tòi đập dẹt. Vài cọng rau răm thái rối. Thế là hoàn tất món độc chiêu của nhà thơ Trần Đăng Khoa.

Cũng giống như khi hắn làm thơ. Một tý bùn. Một tý ốc ếch. Một tý cua cá. Một vầng trăng. Một bà mẹ. Một sông Kinh Thầy… Thế là thành đất nước thiêng liêng của riêng Khoa.

Theo Y Phương – CAND Online

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *