Đi ngang ngôi nhà xưa của cụ Vương Hồng Sển, thấy hàng quán chen chúc phía trước, bít mất cái cổng nhỏ, đi vòng ra sau, thấy nơi mảnh vườn ngày xưa cụ thường ngồi đọc sách, ghi chép, chăm chút cây cỏ, nay đã thành bãi gởi mấy chiếc xe hàng rong. Nghe nói nơi này mấy năm trước còn xum xuê cây sầu riêng, cây xoài và cây nguyệt quế trăm tuổi đêm về thơm cả xóm. Mà đứng nhóng tìm quanh chẳng thấy đâu nữa. Cây sầu riêng tuy còn đứng trơ trơ nhưng trụi lủi lá, cành khô khẳng khiu. Nghe nói ngôi nhà của cụ là nhà xưa mấy trăm năm, cụ giữ gìn từng cây cột, miếng ngói, với nguyện vọng làm Nhà bảo tàng để công chúng đến xem cho biết một cổ tích đất Sài Gòn. Nhưng tôi tìm đến thăm thì nhà xuống cấp không được bảo quản, cổ vật đã chở đi đâu hết. Chạnh nhớ tâm tình của người khách viễn phương trong Đoạn Trường Tân Thanh : Khéo vô duyên bấy là mình với ta…


Đành về lấy sách của cụ mà đọc. Chương “Cổ tích chung quanh Sài Gòn – Chợ Lớn” của quyển Sài Gòn năm xưa liệt kê mười lăng mộ (gồm lăng của ông Lê Văn Duyệt, phò mã Võ Tánh, Long Vân hầu Trương Tấn Bửu, Bá Đa Lộc tức Cha Cả, ông Tả Dinh tức em Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Học mà cụ Vương nghi là Trần Văn Học vì lịch sử Việt Nam không có danh nhân nào tên vậy, ông Nhiêu Lộc, và mộ phần quí tộc họ Hồ và họ Trương Minh). Chùa chiền đình miếu nhà thờ thì rất nhiều, từ ngôi chùa Phật cổ nhứt là chùa Giác Lâm, chùa Tàu xưa nhứt là Thất phủ Quan Võ miếu, cái còn cái mất. Đình cũng vậy, cụ ghi “đã mất đi rất nhiều, nay chỉ còn nhắc tên và biết được vài đình mà thôi” : Mỹ Hội, Long Điền, Chợ Quán, Cầu Kho, Cây Gõ, Tân Hoà Đông… Có lẽ nhà thờ và nhà dòng Thiên Chúa giáo là còn khá nhứt vì mới có từ trào Tây, đáng kể là nhà dòng Saint Paul, được lập ra “lối cuối năm 1960, do yêu cầu của Đức cha Lefèbvre, nên các bà sơ Nhà dòng Saint Paul de Chartres được phái sang đây, với phận sự là săn sóc trẻ mồ côi vì cha mẹ chúng bị bắt đạo nên bỏ rơi”. Vương Cung Thánh Đường Sài Gòn thì ăn lễ lạc thành rất lớn vào ngày 11 tháng 4 năm 1880.

Cổ tích thời tiền-thuộc-địa chẳng còn được mấy, hiện vật không mà tư liệu cũng hiếm, ngoài Gia Định thành Thông chí và một ít thơ phú mà cụ Vương dựa vào để suy ra “Sài Gòn thuộc vùng đất thôn Mỹ Hội, bắt từ mé kinh cây Cám chạy đụng ranh làng Tân Khai.” Trước khi bị Tây đánh phá và chiếm làm thuộc địa, đất Sài Gòn theo miêu tả trong bài Cổ Gia Định vịnh của Ngô Nhơn Tịnh thì “Đông đảo thay phường Mỹ Hội. Sum nghiêm bấy làng Tân Khai. Ngói liễn đuôi lân, phố thương khách toà ngang toà dọc. Hiên sè cánh én, nhà quan dân hàng vắn hàng dài.” Nhưng bây giờ tìm đâu dấu tích ấy? Nhưng tìm cổ tích để làm gì? Cuộc sống bây giờ ào ào tới như nước chảy chỗ trũng, ai rảnh mà nghe chuyện cổ tích?

Thì đây, tôi kể chuyện bây giờ : Tôi vừa cãi nhau một trận với một du khách người nước ngoài. Trước khi tới đây, ông đã tham khảo sách báo để biết qua lịch sử – địa lý – văn hoá, tới nơi thì ông được đi tour vô xem Chùa Bà Chợ Lớn, Bưu điện Sài Gòn, dinh Thống Nhất, địa đạo Củ Chi… Ông nhận xét là thành phố rất sống động và bình luận lý do tại sao cùng là thành phố thuộc địa như Singapore mà Sài Gòn không thể bì được Singapore. Tôi không quan tâm tới việc so bì, tôi chỉ đính chính là Sài Gòn của tôi đã là xứ văn minh thịnh vượng trước khi bị Pháp chiếm. Tôi nói khơi khơi, chứ không biết chỉ chỗ nào để chứng minh. Còn ông Tây thì lật cuốn sách ông cầm theo dẫn chứng rằng, người Pháp đã xây cảng Sài Gòn từ năm 1858 với ý đồ lập một thương cảng cạnh tranh với Hồng Công, Singapore, Batavia, nhưng vì Sài Gòn nằm xa biển 70 km, sông Sài Gòn nhiều khúc quanh co, khiến thời gian vào ra cảng và chi phí cho hoa tiêu dẫn đường quá tốn kém, nên tham vọng đó không thành. Đô thị Sài Gòn cũng do người Pháp qui hoạch, đường xá xây theo kiểu bàn cờ, ban đầu đặt theo số, đến năm 1865 mới đặt theo tên các sĩ quan và viên chức thực dân. Vườn thực vật (tức Thảo cầm viên) được lập ra, trồng thử nghiệm các cây công nghiệp như mía đường, bông vải, đay, nhằm phát triển nông nghiệp thuộc địa. Dưới thời Đô đốc Bonard, Sài Gòn được qui hoạch hoàn chỉnh cho nửa triệu người sinh sống. Sách còn ghi tất cả những chi tiết về tổ chức hành chính, sinh hoạt, giải trí, thương mại, giáo dục, tín ngưỡng của thực dân, và ứng với mỗi chi tíêt, ông du khách đều tìm được dấu tích : Toà đô chánh, Nhà hát thành phố, những con đường kẻ ô từ chợ Bến Thành đến bến cảng… rồi kết luận văn hoá Sài Gòn xưa là văn hoá thực dân, “hòn ngọc Viễn Đông” là “Paris phương Đông”.

Mắng ông khách Tây dốt là chuyện dễ, thuyết phục được ông ta về một Sài Gòn văn hoá hơn 300 năm cần đến chứng cớ hiện vật hẳn hoi. Mà tôi biết tìm ở đâu? Mới hiểu tại sao Sơn Nam 50 năm lang thang khắp Sài Gòn Chợ Lớn ghi chép mải miết, Vương Hồng Sển ki cóp từng cục gạch, từng cái bình rạn da, 92 tuổi ráng ngồi xích lô đi coi di vật khai quật từ cổ mộ, cả đời tìm kiếm địa điểm chợ Cây Da Còm… Nghe nói còn một cái cổng thành Gia Định, nhưng nó bốc mùi nước tiểu của khách qua đường. Nghe nói có những đồ gốm và nhiều cổ ngoạn từ thời Nguyễn Ánh lưu lạc ở đất này được cụ Vương Hồng Sển sưu tầm trong ngôi nhà cổ của cụ, nhưng vật đã đổi chỗ, người đã khuất rồi. Chỉ còn đây cho kẻ hậu sinh nỗi buồn mất gốc văn hoá…

Lý Lan – Sài Gòn Giải Phóng thứ bảy

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *