Tuy nhiên, thất vọng thì thất vọng vậy, nhìn vào thực tế các giải thưởng văn học ở ta – không chỉ ở Hội Nhà văn Việt Nam mà ở cả các hội văn học nghệ thuật địa phương, cũng như giải thưởng của một số cơ quan báo chí – ta có thể thấy, từ nhiều năm nay, thơ ca đã mất "thế thượng phong" rồi.
Điều này đã đành là có nguyên cớ bởi chính chất lượng của thơ, song không thể nói là không có nguyên cớ từ yếu tố… tâm lý của các thành viên trong Ban Giám khảo. Chưa kể tới sự quá khác biệt trong sự "thẩm thấu" thơ, hình như với một số người, trao giải cho thơ là một việc không mấy… "an toàn". Và điều lo lắng này của họ là hoàn toàn có cơ sở!
Trong làng văn, hẳn ai cũng biết câu "văn chương tự cổ vô bằng cớ". Với thơ ca, càng là như vậy. Mặc dù có bề dày truyền thống hơn nhiều so với truyện ngắn và tiểu thuyết, song ở Việt Nam ta, với mỗi một tác phẩm thơ ca, dường như con đường chinh phục dư luận bao giờ cũng gập ghềnh, khó khăn hơn.
Chỉ xin đơn cử một ví dụ: Cùng xuất hiện vào những năm ba mươi (của thế kỷ XX), nếu như tập truyện ngắn "Kép Tư Bền" của nhà văn Nguyễn Công Hoan là "điểm khởi đầu" cho cuộc tranh luận nảy lửa giữa hai phái "nghệ thuật vị nghệ thuật" và "nghệ thuật vị nhân sinh", mà kết quả là cả hai phái đều hết lời ca ngợi giá trị của tập sách cũng như tài năng của tác giả, thì ngược lại, tập "Thơ thơ" của nhà thơ Xuân Diệu lại chưa phải ngay lập tức nhận được sự đồng thuận cao trong dư luận.
Nói như nhà phê bình văn học Hoài Thanh thì "Xuân Diệu đến giữa chúng ta tới nay đã ngót năm năm mà những tiếng khen chê vẫn chưa ngớt. Người khen khen hết sức; người chê, chê không tiếc lời".
Bài thơ "Lời kỹ nữ" của Xuân Diệu vốn dĩ ngay từ lúc mới ra đời đã được rất nhiều bạn đọc trẻ hoan nghênh, vậy mà – vẫn theo lời trần thuật của Hoài Thanh – có người đọc một số câu trong bài đã "nói quyết nếu Xuân Diệu chuyên học thơ mười năm sẽ chẳng viết những câu thơ như thế". Nhắc lại điều này để thấy, mặc dù lợi thế là dễ được phổ cập, song khác với một số tác phẩm văn xuôi, một tác phẩm thơ – dẫu hay – cũng không dễ có được sự "đồng nhất" trong các tầng lớp bạn đọc.
Huống hồ đó lại là sự "đồng nhất" của một Ban Giám khảo…
Chúng ta hãy cùng nhìn vào một số giải thưởng thường niên của Hội Nhà văn Việt Nam được trao từ sau ngày đất nước thống nhất. Điều dễ nhận thấy là với các giải thưởng dành cho thơ, bao giờ Ban Giám khảo cũng "nâng lên, đặt xuống", thuyết trình, tranh luận rất… chật vật.
Như năm 1979, tại vòng chung khảo, các vị "ngự sử văn đàn" đã tranh cãi rất căng xung quanh hai tập thơ "Ngôi nhà giữa nắng" của Huy Cận và "Những dấu chân qua trảng cỏ" của Thanh Thảo. Cả hai nhà thơ Chế Lan Viên và Xuân Diệu đều nghiêng về ủng hộ tập thơ của Huy Cận.
Chế Lan Viên thậm chí còn nặng lời với nhà văn Nguyễn Thành Long khi ông có ý ủng hộ nhà thơ trẻ Thanh Thảo: " Huy Cận dạy Thanh Thảo chứ Thanh Thảo dạy Huy Cận được à?". Thanh Thảo xem ra… mất giải tới nơi, bởi ủng hộ tập thơ của Huy Cận là những nhà thơ rất giỏi thuyết trình.
Thế rồi, thật bất ngờ, đến phút "chung kết", Chế Lan Viên bỗng cầm tập thơ Thanh Thảo đứng dậy nói: "Hãy khoan, những câu thơ như thế này thì đến Huy Cận cũng không viết được thật, anh Xuân Diệu ạ".
Nghe Chế Lan Viên đọc mấy câu thơ của Thanh Thảo, gương mặt Xuân Diệu như giãn ra. Thay vì phản bác, ông quay sang tán đồng với ý kiến của Chế Lan Viên: "Mà tôi không hiểu tại sao cái cậu Thanh Thảo ấy làm được những câu thơ như thế này không biết".
Tập "Những dấu chân qua trảng cỏ" của Thanh Thảo đã trở thành tập thơ duy nhất được trao giải thưởng của Hội Nhà văn năm đó, sau một pha "mổ xẻ" gay cấn đến tận phút chót.
Với trường ca "Đường tới thành phố" (Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1980) của nhà thơ Hữu Thỉnh, tôi không rõ cuộc "mổ xẻ" của Hội đồng Chung khảo diễn ra như thế nào, song một điều chắc chắn là nó cũng không hề được "thông qua" một cách dễ dàng.
Bằng chứng là nhà thơ Xuân Diệu – người thay mặt Ban Giám khảo viết bài đánh giá về tập trường ca này đã tiết lộ ở ngay đầu bài viết của mình: "Nhìn chung, các tập thơ vào chung khảo 1980 truyền cảm được ít, rất dễ bị quên, không bám được lâu vào tâm tình, tức là trí nhớ của người đọc". Bài viết dài chục trang in (khổ 13 x 19cm) thì một nửa Xuân Diệu dùng để khen, và một nửa dùng để… chê.
Ngay để trích được những câu khen, Xuân Diệu cũng thật thà tiết lộ: "Tôi đã đọc bản trường ca tới bảy lần mới dần dần trích được những đoạn trên đây". Có cảm tưởng bài viết được Xuân Diệu thực hiện bởi sự hối thúc của nhiệm vụ hơn là bởi cảm hứng. Và cái "tạng" cảm xúc của ông không hợp với "tạng" cảm xúc của tác giả trường ca nói trên… (xin xem bài "Những suy nghĩ nhân đọc Đư