Bút ký

Từ khách sạn Smiling của cố đô Siem Reap, đoàn nhà văn Việt Nam chúng tôi đến Tonle Sap vào một buổi sáng đẹp trời ngày 30/6/2010 sau hơn 30 phút đi xe. Nắng vàng nhẹ trên khu bến thuyền cho khách ra Tonle Sap, màu nước xanh lục, gợn nhẹ gợi nhớ nước Hồ Gươm, nhưng nước ở con kênh đào này nhạt hơn.

Ghe thuyền đậu san sát, chờ chở khách tham quan du lịch, phía trên là những khu nhà mái lá, lụp sụp, là điểm đầu mối thu mua cá. Có cả những ghe thuyền là nơi văn phòng làm việc, nơi sửa chữa cơ khí, chủ yếu là những máy dầu chạy thuyền. Những chiếc thuyền “đuôi tôm” chở du khách ở đây có hai dãy ghế cho khách ngồi, mỗi dãy ghế 2 người. Tài công ngồi ở trước thuyền, điều khiển sau chiếc “vô-lăng” tự chế. Có cả bàn đạp… ga và thắng, y hệt như tài xế xe ô-tô!

Thuyền khởi hành, nổ máy và rẽ sóng cũng là lúc các nhà văn, nhà thơ – ngày thường quen với cây viết, bàn phím – đều lấy máy ảnh ra tác nghiệp. Trong đoàn chỉ có nhà văn Nguyễn Hiệp, nhà văn Trần Quốc Toàn là có máy ảnh… xịn và chuyên nghiệp nên cũng là những người hăng say nhất. Hết đứng ở khoang thuyền lại trèo ra mũi thuyền, rồi lên cả mui thuyền với đủ các tư thế… lăn lê bò toài… mướt cả mồ hôi. Hình các gã này chụp phải tính bằng… ký chứ không phải bằng tấm. Nhà thơ Trần Hữu Dũng cũng với máy ảnh “xịn”, nhưng trong “tê-lê” của nhà thơ dường như chỉ… chụp những cô gái đẹp người nước ngoài để làm kỷ niệm! Hay để làm chất men cho những cảm xúc thơ?

Con kênh đào dẫn ra dòng Tonle Sap dài chừng một ki-lo-met. Đang là mùa nước cạn nên có nơi sâu khoảng năm, sáu tấc, chân vịt thuyền quay sục bùn lên ngầu đục, máy thuyền có lúc hộc lên như xe mô-tô gài số lên dốc. Thuyền chạy ra, vào, có lúc va đập vào nhau làm mọi người hoảng sợ vì trên thuyền chẳng có một cái áo phao nào, trong khi thuyền của những người nước ngoài, họ đòi phải có áo phao để mặc. Mới biết dân mình quả là… có gan hơn nhiều.

Tonle Sap hay còn gọi là Biển Hồ (hồ lớn như biển), vì đây là hồ nước ngọt lớn nhất Đông Nam Á, đã được Unesco công nhận là Khu dự trữ sinh quyển thế giới năm 1997. Tonle Sap còn có nghĩa là “sông nước ngọt lớn” bởi hệ sinh thái đa dạng và phong phú. Phù sa cùng nhiều phiêu sinh vật khác là chất bồi bổ từ hạ lưu mang đến cho lòng hồ nên Tonle Sap có sản lượng cá lớn đáng kể trên thế giới. Ngư nghiệp trên hồ nuôi sống trên 3 triệu người và cung cấp hơn 75% sản lượng cá nước ngọt cùng 60% lượng chất đạm cho người dân Campuchia.

Theo một số tài liệu nghiên cứu thì Tonle Sap có diện tích chừng 2.590 km vuông trong mùa khô và khoảng 24.600 km vuông vào mùa mưa, vì lúc đó mực nước dâng lên, tràn chiếm những vùng cây cối chung quanh, tạo nên một cái hồ rộng mênh mông, không thấy bờ bến. Độ sâu của hồ, trung bình khoảng 1 met vào mùa khô và 9 met vào mùa mưa, nước nổi. Dân cư sống chung quanh hồ tập trung nhiều cộng đồng gồm người Việt, người Chăm, một số ít người Khmer và người Hoa. Họ sinh sống bằng ngư nghiệp, buôn bán nhỏ trên các làng nổi bên hồ.

Làng trẻ SOS

Thuyền đã ra đến phạm vi của Tonle Sap, máy nổ dòn, tăng tốc. Nước ràn rạt bắn lên mỗi lần có ghe thuyền chạy kề bên hay ngược chiều, quẫy sóng vào hai mạn thuyền. Chợt một đứa bé, hai đứa bé lù lù xuất hiện. Lạ quá, không biết chúng từ đâu bước ra? Có người lầm bầm thắc mắc. Một chiếc thuyền nhỏ áp sát cạnh thuyền chúng tôi, sóng bồng lên, chao nghiêng như muốn lật úp. Một bé gái khoảng chừng 7, 8 tuổi, cổ quấn một con trăn nhỏ, nhảy phốc lên, bám vào mạn thuyền. Thì ra, thấy có du khách, những chiếc thuyền nhỏ tăng tốc chạy kè theo cho đám nhóc này đeo bám thuyền. Hai thằng bé với hai cái giỏ nhựa nhỏ, đựng vài lon bia, vài lon nước ngọt đã được ướp đá, miệng liếng láu : “Bia! Bia! Oke? Oke? One dola… ”, đồng thời ra dấu một ngón tay. Nhìn những đứa bé ăn mặc bẩn thỉu, ướt nước, mình mẩy đen đúa đứng van nài, có người lấy máy ảnh ra chụp, có người trao đổi với nhau bằng những lời thương cảm lẫn chê trách. Biết đoàn chúng tôi là người Việt Nam, bọn trẻ bỗng đổi sang nói tiếng Việt một cách rành rẽ : “Chú, chú, mua dùm con lon nước ngọt”. Có đứa xin tiền, và có đứa đòi tiền… chụp hình chúng. Vài người ái ngại khi biết chúng là người Việt Nam sinh sống ở Tonle Sap. Các em còn quá nhỏ, hầu hết chưa tới 10 tuổi. Tình đồng hương trỗi dậy, có người hỏi thăm chuyện trò, có người mua giúp vài lon bia, nước ngọt. Nhà văn Trần Thôi móc ra một nắm tiền ria, mệnh giá 500 đồng (khoảng 2.000 tiền Việt), phát cho từng em. Thuyền cứ chạy, các em cứ bám thuyền, nhảy lên, nhảy xuống giữa sóng, gió và mênh mông Biển Hồ, như một trò chơi con trẻ.

Có lẽ đám trẻ con, nhìn cung cách của Trần Thôi, với râu ria xồm xoàm, bụng bự, nên loan cho nhau là có… Việt kiều. Thế là thuyền chúng tôi bị bao vây bởi thuyền của những trẻ em Việt Nam, có cả người lớn, phụ nữ ôm con nhỏ kè sát chúng tôi đến khu thuyền nuôi cá sấu và bán hàng lưu niệm. Thôi thì tiếng của đồng bào, của xứ sở cứ gào lên, vang lên đến não ruột. Họ xin tất cả những thứ có thể xin được : tiền ria, đô-la, tiền Việt, cục kẹo, cái bánh… Trần Thôi, Nguyễn Hiệp, rồi nhà thơ Đặng Nguyệt Anh cứ phải lục lọi, móc ví, chọn tiền lẻ để cho đám trẻ. Hết xin, bọn trẻ lại lôi trên thuyền ra những nải chuối cau để bán. Hỏi thăm cô gái bán hàng lưu niệm, cô gái cho biết, người Việt sống trên “làng nổi” ở Biển Hồ hầu hết đều rất nghèo. Chủ yếu họ sống bằng nghề đánh bắt cá, trẻ em vài ba tuổi đã biết bơi, phần lớn không được học hành. Những năm gần đây, các tổ chức từ thiện trong nước và trên thế giới, đã giúp đỡ kinh phí làm hai nhà nổi là lớp học. Cô gái đưa tay chỉ hai cái nhà nổi sơn màu xanh nước biển ở phía xa xa, trên có ghi “Trường học Việt Nam… ” rồi lắc đầu, đại ý nói bọn trẻ Việt Nam ở đây không muốn đi học, mặc dù có thầy giáo người Việt Nam xung phong ra dạy, không đòi hỏi thù lao và lương tháng. Con chữ đối với chúng khó hơn là bơi lội trên sóng nước và bắt cá kiếm sống? Nếu có học thì đủ để biết chữ đánh vần rồi thôi…

Tôi lân la thân thiện và làm quen với người phụ nữ gầy ốm, hai tay ẵm đứa bé chừng dăm tháng tuổi : “Cháu còn bé quá, sao không để ở nhà, mà ẵm ra nơi sóng nước này?” – tôi hỏi. Chị buồn bã trả lời, ở nhà không có cái ăn, đói… phải ra đây để xin tiền! Được biết, quê chị ở An Giang, qua đây từ rất lâu, nhưng…

Xúc động, trao người phụ nữ tờ 10.000 ria, tôi hiểu, ở sau sự ngập ngừng của chị là những khó khăn đối với cộng đồng người Việt. Cũng có người Việt Nam thành đạt trên đất Campuchia, nhưng hầu hết người Việt ở Tonle Sap đều sống nghèo khổ.

Mỗi bước đi của đoàn nhà văn, nhà thơ chúng tôi trên dòng Tonle Sap này lại lằng nhằng kéo theo một đám trẻ con người Việt. Chung quanh bốn bề, mênh mông sóng nước. Xúc cảm buồn cứ dâng lên, làm cay cay đôi mắt. Biết làm sao được, nhìn đồng bào mình trôi nổi, xa xứ mà thương. Tạm biệt Tonle Sap, chia tay với các em nhỏ, những mầm non gốc Việt, vì sinh kế, phải nổi trôi, dập dềnh thân phận bé bỏng trên dòng Tonle Sap đầy bất trắc. Tương lai nào cho chúng? Tôi thầm hỏi và nhìn ra khói sóng của dòng sông sao cứ lờ mờ nhân ảnh. Cũng đành mà thương suốt hành trình về…

TRẦN HOÀNG VY – Theo SCLO

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *