Những loài cá mới này do các nhà khoa học ở viện Smithsonian và quỹ Khoa học đại dương tìm ra nhờ sử dụng phương pháp phân tích di truyền hiện đại, kết hợp với xem xét hình thái học truyền thống.
Cá bống lon mây William – Starksia williamsi Baldwin & Castillo, sp. n.: con đực (trên) và con cái (dưới). Ảnh: Jeffrey Williams |
Các phát hiện của nhóm nghiên cứu được công bố trên tạp chí khoa học ZooKeys, ngày 3/2. Các loài cá bống lon mây thường có kích cỡ nhỏ (ít hơn 2 inch, khoảng 5cm), với phần thân kéo dài, thường sống ở các vùng nước từ nông đến sâu có đá ngầm và rạn san hô ở phía Tây Đại Tây Dương và phía Đông Thái Bình Dương.
Các loài cá bống lon mây này đã được nghiên cứu trong hơn 100 năm. Các nhà khoa học cho rằng, có rất ít các nhóm còn lại để khám phá. Trong khi cố gắng nghiên cứu để làm phù hợp các giai đoạn ấu trùng của cá rạn san hô với cá trưởng thành thông qua DNA, nhóm nghiên cứu nhận thấy, mâu thuẫn giữa các dữ liệu di truyền phân loại sơ bộ và các loài hiện nay.
Nghiên cứu kỹ hơn, các nhà ngư loại học khám phá nhiều loài mới, bao gồm các loài cá bống lon mây mới. "Phân tích ADN đã cung cấp cho khoa học nguồn dữ liệu mới rất lớn để xem xét các vấn đề cũ", Carole Baldwin, nhà động vật học tại bảo tàng Lịch sử tự nhiên quốc gia Smithsonian và là tác giả chính của bài báo, nói. Nhà động vật này nói thêm: “Khám phá này làm sáng tỏ loài mà chúng tôi đã bỏ lỡ trước đây, đặc biệt là các loài cá rạn san hô nhỏ, bí ẩn như các loài cá bống lon mây”.
Danh sách 7 loài cá bống lon mây mới: 1. Cá bống lon mây Sangrey – Starksia sangreyae Castillo & Baldwin, sp. n., 2010. 2. Cá bống lon mây Spinger – Starksia springeri Castillo & Baldwin, sp. n., 2010. 3. Cá bống lon mây Weigt – Starksia weigti Baldwin & Castillo, sp. n. 2010. 4. Cá bống lon mây Williams – Starksia williamsi Baldwin & Castillo, sp. n. 2010. 5. Cá bống lon mây Robertson – Starksia robertsoni Baldwin, Victor & Castillo, sp. n., 2010. 6. Cá bống lon mây Greenfield – Starksia greenfieldi Baldwin & Castillo, sp. n., 2010. 7. Cá bống lon mây Lang – Starksia langi Baldwin & Castillo, sp. n., 2010. |
Theo SGTT