21/2 – 24 năm ngày mất của nhà văn Nga lừng danh thế giới Mikhain Sôlôkhôp : Vinh quang và cay đắng
10/02/2009
Mikhain Alêchxandrôvich Sôlôkhôp
Mikhain Alêchxanđrôvich Sôlôkhôp sinh ngày 24 tháng 5 năm 1905 và vĩnh biệt bạn đọc năm 1984, thọ 79 tuổi.
Sôlôkhôp là bạn chiến đấu của nhân dân ta. Ông nhắc tới Việt Nam từ năm 1949. Năm 1966, ông lên án : “Cuộc chiến tranh chống nhân dân Việt Nam hầu như là một trang nhục nhã nhất trong tiểu sử của chủ nghĩa đế quốc Mỹ”. Nhà văn xúc động : “Tim ai – tôi nói về những người trung thực – không quặn đau vì những vết thương của nhân dân Việt Nam? Tim ai không giật thót vì tro tàn của những ngôi nhà thanh bình bị bom napan thiêu cháy?” Ông kêu gọi các nhà văn, dư luận toàn thế giới : “Cần giúp đỡ và ủng hộ có hiệu quả cho nhân dân Việt Nam anh em, cho phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới” (Toàn tập, tập 8, trang 371).
Sôlôkhôp tự hào về dân Côdắc thượng võ, phóng khoáng đã sản sinh ra các lãnh tụ nông dân khởi nghĩa Radin và Pugatsôp. Đề tài chủ yếu xuyên suốt sáng tác của Sôlôkhôp là đời sống của dân Côdắc sông Đông trong những năm đầu thế kỷ XX đầy ắp những biến cố lịch sử trọng đại. Sôlôkhôp suốt đời sống và sáng tác tại quê hương yêu dấu, quận lỵ Viôsenxcaia, tỉnh Rôxtôp trên sông Đông : “Tôi sinh ra ở sông Đông, lớn lên ở đó, học tập, được đào luyện nên người, thành nhà văn và được giáo dục thành đảng viên Đảng Cộng sản vĩ đại của chúng ta. Và là một người yêu mến Tổ quốc vĩ đại hùng cường của mình, tôi tự hào nói rằng, tôi cũng là người yêu mến vùng sông Đông thân thuộc của mình” (Tập 8, trang 68).
Nhìn bề ngoài, cuộc đời Sôlôkhôp chói lọi hào quang. 17 tuổi đến Mát-xcơ-va, 19 tuổi in truyện ngắn đầu tay Cái bớt, 21 tuổi đã có tập Truyện sông Đông và Thảo nguyên xanh (gồm cả thảy 21 truyện ngắn), được nhà văn lão thành A.Xêraphimôvich nhiệt liệt ngợi khen, 36 tuổi nhận Giải thưởng Xta-lin hạng nhất trao cho Sông Đông êm đềm (Sôlôkhôp đã hiến toàn bộ tiền thưởng cho Quỹ Quốc phòng chống phát-xít Đức), 55 tuổi nhận Giải thưởng Lênin khi Đất vỡ hoang ra trọn bộ hai tập (nhà văn tặng tiền thưởng để xây trường ở trấn Karghinxcaia, nơi xưa kia ông theo học), 60 tuổi đến Xtốckhôm nhận Giải thưởng Nôben. Là đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô, năm 27 tuổi, 56 tuổi là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được bầu làm Viện sỹ Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô ở tuổi 34, hai lần được thưởng Huân chương Lênin (năm 34 và 50 tuổi), hai lần được phong Anh hùng Lao động XHCN (năm 62 và 75 tuổi), từng gặp gỡ và được các Tổng Bí thư của Đảng ca ngợi tài năng và giúp tháo gỡ những khó khăn để in tác phẩm. Từ 1929, Xta-lin đã viết về “Nhà văn nổi tiếng của thời đại chúng ta, đồng chí Sôlôkhôp”. Còn Khơrutsôp thì năm 1961 về tận quê Sôlôkhôp mời “nhà văn Xô-viết vĩ đại” cùng đi thăm nước Mỹ. Tuy không tán thành dự định của Sôlôkhôp tả các cuộc trấn áp năm 1937 (“đừng xát thêm muối vào vết thương”), năm 1969, Brêgiơnep vẫn cho in một số chương mới của tiểu thuyết Họ chiến đấu vì Tổ quốc.
Ấy thế nhưng Sôlôkhôp là nạn nhân của một số âm mưu, vu cáo chính trị cực kỳ nguy hiểm. Năm 1929, N.Prôcôphiep viết bài “Những kẻ tạo ra thứ văn chương thuần tuý”, kết tội Sôlôkhôp bợ đỡ phú nông và các nhân vật chống Xô-viết. Ngày 5/11/1929, Ban Chấp hành Hội các nhà văn vô sản Bắc Capcadơ khẳng định rằng, bài báo của N.Prôcôphiep chống lại Sôlôkhôp là “sự vu khống bỉ ổi nhất”.
Năm 1937, người ta sai I.X.Pôgôrêlôp, một người đã bị khai trừ khỏi Đảng Cộng sản, vu cáo Sôlôkhôp có âm mưu phiến loạn, nhưng nể tình bạn, nên Pôgôrêlôp báo cho Sôlôkhôp biết. Sôlôkhôp lập tức chạy về Mát-xcơ-va gặp Xta-lin và được cuộc họp của Bộ Chính trị thừa nhận là vô tội.
Thêm vào đó, suốt đời Sôlôkhôp bị đè nặng bởi lời vu cáo oan ức, cho rằng ông ăn cắp văn của người khác! Năm 1929, nhiều kẻ cho rằng Sôlôkhôp sao chép cuốn Sông Đông êm đềm của X.X.Gôlôusep, bác sỹ sản khoa, nhà phê bình, bạn của nhà văn L.Anđrêep. Từ 1917, Anđrêep viết trong thư gửi Gôlôusep nói rằng ông đã vứt bỏ Sông Đông êm đềm, không in. Sông Đông êm đềm của Gôlôusep là bút ký và phong tục, trong đó tác giả chú ý tới thái độ chính trị của dân sông Đông năm 1917, thường hay nhắc tới Kornilôp và Calêđin. Nhà v
ăn Xêraphimôvich cho rằng, Gôlôusep là “con người đáng yêu nhất, người kể chuyện xuất sắc giữa bè bạn, nhưng hỡi ôi, là nhà văn rất xoàng xĩnh… ”. Tháng 3/1929, báo Sự thật thành lập một Ủy ban điều tra về việc này gồm năm nhà văn do Xêraphimôvich đứng đầu. Ủy ban đã công bố kết luận cho rằng, câu chuyện hoang đường về việc Sôlôkhôp ăn cắp văn là "sự vu cáo nhỏ nhen". Nhưng nhiều người vẫn không tin rằng, một chàng trai 20 tuổi, ít học lại có thể viết ra một tác phẩm vĩ đại như thế, và khi mà bản thảo quyển một và quyển hai Sông Đông êm đềm bị mất, thì việc vu cáo Sôlôkhôp ăn cắp văn lại rộ lên. Năm 1974, cuốn sách in tại Pari của Đ. (bút danh vắn tắt của I.Tômasépxcaia) nhan đề Dòng chảy của Sông Đông êm đềm (Những câu đố của tiểu thuyết) với lời nói đầu của A.Xôngiênixưn mưu toan chứng minh rằng Sông Đông êm đềm thuộc về cả Ph.Đ.Kriucôp (1870-1920) và M.Sôlôkhôp. Lý lẽ chính vẫn là vì lúc ấy Sôlôkhôp còn trẻ quá! Năm 1977, một nhóm các nhà khoa học Bắc Âu gần gũi Ủy ban xét Giải thưởng Nôben đã dùng máy tính kiểm tra, so sánh văn bản Sông Đông êm đềm với các tác phẩm khác của Sôlôkhôp. Năm 1984, G.Hétxôn và ba nhà khoa học đã công bố kết quả công trình nghiên cứu của họ tại Ôxlô – thủ đô Nauy, khẳng định quyền tác giả của Sôlôkhôp và năm 1989, họ xuất bản cuốn sách Ai viết Sông Đông êm đềm.
Cuối tháng 11/1999, Ủy ban Di sản Văn học của Sôlôkhôp họp báo công bố một tin đặc biệt quan trọng : đã tìm thấy bản thảo quyển một và quyển hai tiểu thuyết Sông Đông êm đềm của Sôlôkhôp với sự giúp đỡ nhiệt tình của Tổng thống Nga V.Putin, người coi tác phẩm quý giá này là “tương lai, danh dự và lương tâm của nước Nga”. Đây là một sự kiện phi thường, có tầm vóc thế giới bởi vì nó chấm dứt vụ vu cáo văn chương thâm độc kéo dài gần một thế kỷ, làm ngời sáng thanh danh của một thiên tài văn học Nga (xem Văn nghệ số 28, 29, 30 năm 2000 và Văn nghệ trẻ số 8 năm 2000).
Dù số phận long đong đến đâu, Sôlôkhôp vẫn dũng cảm đương đầu, vượt qua với một bản lĩnh kiên cường và một nhân cách cao thượng.
Quá trình tiếp nhận Sông Đông êm đềm, cuốn tiểu thuyết mà nhà văn yêu thích nhất, cũng rất phức tạp. Nhiều cây bút phê bình, nghiên cứu tỏ ra bất lực. Năm 1954, Sôlôkhôp nói ở Đại hội Nhà văn U-crai-na : “Họ đã nện tôi khá nhiều và khen tôi quá đáng”. Năm 1958, ông tâm sự ở Pra-ha : “Họ lần lượt coi những tác phẩm của tôi thoạt đầu là của một nhà văn phú nông, sau đó đối với họ tôi là một nhà văn phản cách mạng và trong thời gian gần đây họ lại nói rằng tôi suốt đời là một nhà văn hiện thực xã hội chủ nghĩa”.
Ngay lịch sử sáng tác Sông Đông êm đềm cũng là một câu chuyện dài. Biên tập viên Nhà xuất bản Văn học không nhận in quyển một vì cho rằng tác giả “tâng bốc dân Côdắc, lý tưởng hoá lối sống Côdắc”. A. Xêraphimôvich đã tạo mọi điều kiện để in quyển một và quyển hai Sông Đông êm đềm trên tạp chí Tháng Mười ngay trong năm 1928 và tinh tường nhận ra “con đại bàng non mỏ vàng tung cánh” trên bầu trời văn học Xô-viết. M.Gorki dự đoán Sôlôkhôp sẽ là “nhà vănXô-viết xuất sắc nhất”. A.Lunatsarxki cho rằng Sông Đông êm đềm “gợi nhớ tới những hiện tượng ưu tú của văn học Nga mọi thời đại”. Về sau, nhiều người cho rằng Sông Đông êm đềm có thể sánh với Chiến tranh và Hoà bình của L.Tônxtôi. Việc in quyển ba gặp rắc rối vì mô tả cuộc bạo loạn của dân Côdắc sông Đông. Sôlôkhôp phàn nàn về lối biên tập giản đơn, thô bạo : “Điều buồn cười là hàng chục người đòi hỏi vứt bỏ hàng chục đoạn khác nhau, và nếu như nghe theo tất cả mọi người thì phải vứt bỏ ba phần tư” (Thư Sôlôkhôp gửi M.Gorki năm 1931). Xta-lin gặp Sôlôkhôp tại nhà riêng M.Gorki năm 1931, góp ý kiến về cách tả tướng Kornilôp, về lý do Pôtchencôp giết Trécnêxôp. Xta-lin cho rằng “việc mô tả các biến cố trong quyển ba Sông Đông êm đềm phục vụ chúng ta” và đồng ý cho in quyển ba năm 1932. Quyển bốn in năm 1938 và đầu năm 1940. Như vậy, Sôlôkhôp đã sáng tác Sông Đông êm đềm trong 15 năm.
Số phận Sông Đông êm đềm ở ngay Liên Xô cũng rất lận đận. Các nhà nghiên cứu chưa đánh giá đúng được nhân vật trung tâm Grigôri Mêrêkhôp vô cùng phức tạp, một điển hình văn học lớn của thế kỷ, sáng tạo độc đáo của Sôlôkhôp. Đáng chú ý là ngay từ đầu, các nhà nghiên cứu đã xác định Grigôri Mêrêkhôp là một nhân vật bi kịch vì thấy nhiều nét tốt đẹp, cao thượng của nó. Quá trình tiếp nhận Sông Đông êm đềm là quá trình cắt nghĩa bi kịch của Grigôri Mêrêkhôp, đầu mối của mọi tuyến cốt truyện, trung tâm kết cấu, tiêu điểm thể hiện tư tưởng cơ bản của tác phẩm.
Vào giữa thế kỷ trước, cách đánh giá Grigôri Mêrêkhôp còn khá giản đơn. V.Ermilôp cho rằng, hình tượng này không hợp quy luật. Kirpôtin : Grigôri lầm lạc vì dốt nát. L.Lêvin : Grigôri rơi vào bi kịch của chủ nghĩa cá nhân, đi tìm hạnh phúc cá nhân. L.Gôpphensêre : Đầu đời Grigôri có tính điển hình vì gắn bó với nhân dân, cuối đời không điển hình vì xa nhân dân. Tiêu biểu cho cả thời kỳ này là quan điểm coi Grigôri là “kẻ tách rời nhân dân”, tức là về cơ bản, đây là nhân vật tiêu cực cần lên án.
Một số nhà nghiên cứu như A.Siskina, I.Legiơnep, L.Yakimencô, nói về “tội lỗi lịch sử” của Grigôri. Họ cho rằng cơ sở bi kịch của Grigôri là bản chất hai mặt của người tiểu tư hữu. Công trình “Cuộc đời và sáng tác của M.Sôlôkhôp” (1960) của V.V.Gura và “Mikhain Sôlôkhôp” (1962) của Yu.Lukin đều trích dẫn ý kiến Lênin về “Hai tâm hồn” của người tiểu tư hữu : người lao động và đầu óc tư hữu. Thiên kiến đẩy nó về quá khứ, về với giai cấp tư sản. Lý trí kéo nó về tương lai, với giai cấp vô sản. “Nó không thể có “đường lối” kinh tế độc lập”. Các nhà nghiên cứu cho rằng, những dao động triền miên của anh trung nông Grigôri thể hiện tuyệt vời ý kiến của Lênin. Nhưng Grigôri đâu chỉ là trung nông? Dẫu sao quan điểm này cũng nâng tỷ lệ tốt – xấu của Grigôri lên mức ngang nhau.
A.Briticôp, I.Bôrixôva, B.Êmêlianôp, N.Maxlin v.v… viện dẫn quan điểm của Mác về “sự lầm lạc lịch sử” để cắt nghĩa bi kịch của Grigôri. Trong công trình “Tiểu thuyết của Sôlôkhôp” (1960), N.Maxlin trích Mác : “Trong khi Ancien Régime (chế độ cũ), với tư cách là trật tự thế giới hiện hành đấu tranh chống thế giới vừa ra đời, thì sự lầm lạc của nó không phải là sự lầm lạc cá nhân, mà lầm lạc có tính chất lịch sử toàn thế giới. Sự diệt vong của nó vì thế có tính chất bi kịch” (“Phê phán triết học pháp quyền của Hêghen”). Như vậy, Grigôri không còn là “kẻ tách rời nhân dân”, bi kịch của Grigôri cũng chính là bi kịch của nhân dân. Bản án đ