Tên sách : SỐNG KHÓ HƠN LÀ CHẾT
Tác giả : Trung Trung Đỉnh
Phát hành : NXB Hội Nhà văn
*****
Tiểu thuyết Sống khó hơn là chết có một "lai lịch" khá đặc biệt. Phần đầu truyện được viết từ đầu thập niên 80 của thế kỷ trước, phản ánh cuộc sống của giai đoạn mà hôm nay chúng ta nhìn lại như đọc truyện cổ tích.
Còn phần cuối được tác giả gọi tên là “Cõi thực” thì lại mới được viết vào những ngày gần đây, những ngày tháng của xã hội hiện đại, của cuộc sống với điện thoại di động, với ngôn ngữ 8X và những mối quan hệ tình cảm chớp nhoáng.
Đi từ đầu đến cuối câu chuyện là những mảng ghép đan xen của quá khứ và hiện tại, của nỗi ám ảnh chiến tranh đã qua, của nỗi đau đớn phận người nghèo khổ lang thang trôi dạt nay đây mai đó ngay cả khi không còn chiến tranh… Và qua lời kể của đồng tiền 1.000 đồng, các số phận lần lượt hiện lên trang sách, rõ rệt và nhức nhối vô thường…
Một nhà văn cứ canh cánh nghĩ hoài về thân phận con người, đau đáu không làm sao viết cho được một tác phẩm mang đậm tính nhân văn, nhà văn tìm đến men rượu, và men rượu dẫn nhà văn đến nói chuyện với đồng tiền 1.000 nhàu nát.
Đồng tiền kể rằng vì đã đi qua vài ba số phận thật đáng thương và bi ai nên mới trở nên nhàu nát như thế này, rồi đồng tiền kể cho anh nghe câu chuyện của chị Nhài, một người phụ nữ có quãng đời long đong, trải qua không ít những mối tình, cái mong muốn nhỏ nhoi nhất đời chị là có một mái ấm gia đình và cuộc sống đã không chịu ban tặng cho chị món quà bé nhỏ ấy.
Chị Nhài ngày trước vốn xinh đẹp nổi tiếng khắp lâm trường, được người đội trưởng hào hoa đem lòng yêu mến. Những tưởng hạnh phúc sẽ đến thật êm ái, ngờ đâu sau đó, người đàn ông ấy trở thành một tay Sở Khanh đổ tiếng oan khiến chị buộc phải rời bỏ lâm trường. Rồi cuộc sống đưa đẩy chị gặp một anh bộ đội trốn từ Quảng Bình ra. Hai người lấy nhau như "hai kẻ dối trá ghép vào nhau thành đôi lứa". Cũng chẳng được bao lâu thì sự thật bị phát hiện, "thế là một kẻ vào tù còn một kẻ bị gia đình chồng hắt hủi", người phụ nữ khốn khổ đành dắt con bỏ đi.
Và tạo hoá đùa giỡn với mảnh đời của chị, cho chị gặp một người đàn ông quá đỗi nhu nhược. Mặc cho chị không quản ngại chăm lo vun vén cho cái gia đình với người chồng có hai đứa con riêng, gia đình mong manh này đã vỡ vụn khi người chồng tát chị và đuổi đi chỉ nhằm lấy lòng con… Từ đây, kiếp bèo bọt cơ nhỡ của chị lại tiếp diễn, cái dáng chị lếch thếch dắt đứa con gái gầy guộc đổ bóng liêu xiêu xuống cuộc đời này như mũi kim đâm vào tâm can nhà văn, buốt đến tê tái ngòi bút.
Thế rồi trong những tháng ngày đi ăn xin, ngủ nghỉ ở lề đường tưởng như đã rơi xuống tận cùng vực thẳm, chị lại thoi thóp mong chờ một thứ hạnh phúc mong manh, thứ hạnh phúc được đem lại bởi một kẻ say rượu, bởi những lời nói trong cơn say dại chán đời của một kẻ say. Chị đã như bị thôi miên, ngưỡng vọng một thứ không biết có được gọi là tình yêu? Một thứ kiếm tìm xa thẳm lắm, khi mà chị "cứ thả cho mình trôi nổi theo cái đà vô vọng ngẩn ngơ, đi tìm cái bóng của tình yêu. Cái bóng của một con ma mang hình một con ma… "
Đồng tiền rời khỏi người phụ nữ khốn khổ ấy khi chị chợt tỉnh ra vì đứa con bị ốm ngất đi. Có lẽ tình mẫu tử khi ấy đã đánh thức chị khỏi cơn mê muội hoang hoải… Cũng không biết được đời chị sẽ đi về đâu, bến đậu nào của cuộc đời này? Đồng tiền dẫn dắt nhà văn đến với một cuộc hành trình khác, cuộc đời của người đàn ông tên Hải, một nhà nghiên cứu xã hội học. Anh là một người lính từ chiến trường về, mang trong mình cả bầu nhiệt huyết của những gì cao cả nhất, anh dũng nhất và cũng ám ảnh nhất.
![]() |
Nhà văn Trung Trung Đỉnh |
Viện nghiên cứu nơi anh làm, nhìn bề ngoài tưởng như là đang đổi mới theo cơ chế xã hội chủ nghĩa mới, nhưng thực chất bên trong lại mục rỗng và thối nát. Người ta hô hào khẩu hiệu ra vẻ ủng hộ, rồi lại đẩy Hải bất ngờ ngã sấp mặt vào tường, bởi đề tài anh nghiên cứu về niềm tin của con người mới trong thời kỳ xã hội chủ nghĩa đã chỉ ra rằng, trong ba người thì chỉ có một người chấp nhận tin và ngồi lên xe khi anh đề nghị chở giúp họ đi đâu đó.
Hải chỉ ra một sự thật rằng, cuộc sống hiện thực mà theo các đồng nghiệp anh nghiên cứu đang rất "tươi đẹp" lại là cuộc sống mà người ta nghi ngại lòng tốt của người khác rõ rệt. Chính vì sự thật ấy mà anh được các đồng nghiệp "quan tâm" đưa vào bệnh viện tâm thần.
Có đáng sợ không khi một đề tài rất công phu và mang đầy nhiệt huyết của một người lính trí thức như Hải bị coi là trái chiều, mang tính phản động? Hải ngơ ngác như chính anh cũng không hiểu, thế nào là niềm tin của con người đối với nhau. Mới hôm qua thôi, những bạn đồng nghiệp kia còn ủng hộ và khen ngợi đề tài của anh cơ mà?
Đồng tiền theo chân nhà văn đến bệnh viện tâm thần thăm Hải và nghe những câu chuyện về một quá khứ hào hùng, một mảng ký ức những năm tháng chiến tranh dội về phía hiện tại mờ ảo của anh như những trái bom có sức huỷ diệt rất lớn. Có đôi khi, nó ăn mòn hiện tại của chính anh.
Quá khứ ngỡ ngàng nhận ra rằng, chính nó đã nuôi sống Hải, đã giúp Hải gắng gượng mà vượt qua những cú sốc mà hiện tại đem về. Những ngày tháng sống trên mảnh đất Tây Nguyên ấy, Hải đã gọi là quãng đời tươi đẹp nhất.
Ở mảnh đất bom đạn khắc nghiệt ấy, anh lại tìm thấy ý nghĩa cuộc đời mình, cùng với những người bạn vào sinh ra tử như anh Mười Thu, thằng Viễn – chuyện vặt, thằng Tụng cụt, oắt con Chung thầy lang… Những người anh em dân tộc sống chết có nhau. Hơn ai hết, Hải biết những ngày đó đã đi vào dĩ vãng, đã là đứa con của một thời đã xa, nhưng anh vẫn níu vào nó, như bám vào một cái cọc trên sông, để mong thấy mình nổi dù là lênh đênh trong dòng chảy cuộc đời.
Ta bỗng giật mình khi thấy thấp thoáng bóng hình tác giả trong câu chữ viết về nhân vật Hải. Nhà văn Trung Trung Đỉnh đã từng nói : "Tôi luôn cảm thấy cõi thực của hôm nay chính là cái kho quá khứ mà con người ta phải è cổ ra mang vác nó".
Chính ông cũng quay quắt vô cùng với những năm tháng chiến tranh và với mảnh đất Tây Nguyên mà ông coi như vùng đất của toàn bộ tuổi trẻ mình. Khi được hỏi tại sao ông luôn bị ám ảnh bởi quá khứ của chiến tranh, nhà văn đã tâm sự : "Tuổi trẻ là quãng thời gian quý nhất của đời người. Vậy mà toàn bộ tuổi trẻ của tôi, của thế hệ chúng tôi bị cuốn vào cuộc chiến khốc liệt. Thoát chết về được không có nghĩa là thoát khỏi cuộc chiến".
Chính vì lẽ đó mà nhân vật Hải đã mang trong mình những nặng nợ với mảnh đất Tây Nguyên ấy không sao thoát khỏi mạng nhện của quá khứ, của chiến tranh. Chúng vây bủa anh, và sự thật là anh đã thua cuộc. Anh đã không kiểm soát được lý trí khi bị dồn vào chân tường, bị gọi là một kẻ tâm thần.
"Phải chăng tìm quá khứ
…Trở về từ tương lai… ?"
Cho dù có ra sức vẫy vùng hay ra sức níu kéo thì cuộc sống vẫn phải tiếp diễn theo đúng quy luật của nó. Những người bạn của Hải cũng thế, họ đều có cuộc sống riêng và một đôi lúc, họ tìm về với quá khứ, tìm về với nhau để sống lại dù ngắn ngủi và gấp gáp thôi những ngày tháng xa xưa.
Anh Mười Thu bây giờ đã cùng chị Thanh ở lại mảnh đất ấy an cư lạc nghiệp, thằng Tụng cụt thì mở rộng khu đất, xây thêm chỗ này, đắp chỗ kia cũng lo kế sinh nhai. Thế còn oắt Chung thầy lang không chịu lấy vợ, sống một cuộc sống "nói không với hiện đại", không dùng điện, ti-vi, không ăn mì chính và cứ chữa bệnh cho người dân trong làng với tiền công rất ít, chỉ đủ duy trì cuộc sống qua ngày.
Rốt cuộc thì sao? Chiến tranh đã qua đi, và dẫu nó có quay trở lại thì cũng chỉ sống sót trong ký ức của những người như Hải và các bạn của anh. Tại sao họ cứ mãi đắm chìm và đau đáu nhìn về phương ấy? Và số phận chị Nhài, vì sao sau đó chị nương nhờ cửa Phật rồi lại ra đi, cuối cùng về ở với một ông già 80 tuổi với những lời dị nghị dòm ngó của những người hàng xóm. Và phải chăng chị đã tìm thấy bến bờ để neo đậu con thuyền đời mình, dù bến bờ ấy cũng không bền vững lắm bởi ông cụ cũng đến tuổi gần đất xa trời. Thế nhưng, biết đâu đấy, chị lại thấy bình yên hơn cả?
Đồng tiền xuất hiện trong tác phẩm như một nhân chứng xác thực nhất, cũng như một nhà biện chứng hùng hồn với những kết luận sâu sắc nhất. Đồng tiền trôi nổi qua tay bao số phận kiếp người, cuối cùng cũng trở về cát bụi trong cái đêm cúng ở Miếu Ma ấy. Con người cũng vậy, qua bao nỗi đời bể dâu cũng an nhiên trở về cõi im lặng màu đen bất tận kia. Tấ
t cả như chảy trôi trong một vòng tròn số phận, mà tạo hoá là kẻ đưa đẩy, lúc thăng khi trầm, để con người đôi khi hoang mang, vì những giá trị thật trong thế giới ảo và nỗi ảo ảnh trong cuộc đời thật này.
Một cái kết gọn và mở, Trung Trung Đỉnh đã đẩy đưa con mắt của người đọc về một cõi mơ vĩnh hằng, để bỗng nhiên ta thấy thật khó hiểu, nhưng đáp lại, ông cũng giãi bày với người đọc : "Cái kết tuy rất ngắn, nhưng lại chứa đựng toàn bộ khối “thuốc nổ” của quá khứ và của cả hiện tại. Nếu không có khoảnh khắc lặng câm ấy, chắc nó – tức là cuộc sống thực ấy – sẽ nổ tung mất".
Cuốn sách được viết bằng sự chắp nối thời gian của tác giả – một khoảng thời ian không hề ngắn để chiêm nghiệm về những giá trị của đời sống. Để ông cho ta thấy vết hằn của thời gian không hề ảnh hưởng đến mạch cảm xúc trong ông. Như nhà văn Nguyên Ngọc nhận xét, ông vẫn đau đáu về Tây Nguyên và những năm tháng chiến tranh thuộc về ông đã không bao giờ tách khỏi những trang sách mà ông viết, dù ông không cố tình.
"Trước sau tôi vẫn không thoát được cuộc chiến tranh. Viết cái gì rồi cũng quay về cái đó! Đó là nỗi ám ảnh lớn nhất trong đời tôi. Đó là toàn bộ tuổi trẻ của tôi! Kể ra như thế thì cũng thật đáng tiếc lắm thay. Nhưng có lẽ đó là số phận, không thể anh muốn thế nào cũng được."
Cái chết được người đời coi là sự giải thoát, nhưng đấy chỉ là khi người ta đã đi đến tận cùng nỗi đau, đi đến tận cuối con dốc cuộc đời, phải vậy chăng khi mà Trung Trung Đỉnh cứ trăn trở một câu "Sống khó hơn là chết". Chết thì thôi rồi, nhưng đã sống, và sống thế nào cho đúng nghĩa của từ Sống mới thật khó biết bao…
Tâm An – Theo TVN