Trước Tết, đi Hội chợ Nông nghiệp ở thành phố, tôi thấy một gian hàng bày các nông cụ, có những thứ tôi chưa thấy bao giờ, chỉ biết tên nhờ đọc những quyển sách cũ về thời ông cha khai khẩn miền Nam. Hỏi thì biết đó là gian hàng của Hợp tác xã nghề rèn ở làng Hoà Hảo. Tôi chụp hình cái phảng phát cỏ, lưỡi leng, lưỡi cuốc, các loại dao, rựa… gởi kèm email cho chồng xem chơi. Hồi nhỏ, anh cũng sống ở nông thôn, ông bà ngoại là nông dân, nên anh hiểu biết về một số nông cụ, và biết chúng có thể kể rất nhiều câu chuyện về nhà nông. Không ngờ, anh tỏ ra thích thú hơn mức tôi tưởng. Khi về Việt Nam ăn Tết, anh đòi đi đến tận nơi làm ra những nông cụ đó.
Tôi chỉ biết làng Hoà Hảo ở An Giang, chứ không có địa chỉ cụ thể của các lò rèn. May mà nhớ ra bạn đồng nghiệp trẻ Dương Thanh Vân quê ở An Giang, cha mẹ đều đang ở đó và am hiểu về quê xứ mình. Nhờ cha mẹ Vân, tôi có địa chỉ : thị trấn Phú Mỹ, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang, được hướng dẫn cả đường đi nước bước : Từ Long Xuyên chạy lên hướng Châu Đốc khoảng 30 cây số, qua phà Năng Gù, đi tiếp về hướng Chợ Vàm sáu, bảy cây số nữa là tới. Lúc chúng tôi đến là giữa trưa, con đường chạy qua thị trấn vắng vẻ, nhà cửa hàng quán bên đường vẫn mở nhưng không nhộn nhịp, dường như mọi người đang nghỉ trưa. Một không khí yên ả thanh bình. Tài xế hỏi đường, ai cũng nồng nhiệt hướng dẫn. Bỏ con đường chính, quẹo vô một cái hẻm, xóm đó còn nhiều lò rèn lắm.
Hồi xưa ở Chợ Búng quê tôi cũng có lò rèn. Nhưng cái lò rèn đó biến mất lúc nào tôi không biết, bây giờ hỏi lại, nhiều người ở tại chợ thậm chí không hiểu lò rèn là cái gì. Tôi giải thích là nơi sản xuất ra công cụ bằng sắt như lưỡi liềm, dao, kéo… thì người ta chỉ qua sạp bán đồ gia dụng, giới thiệu dao Thái Lan, kéo Đài Loan cùng các thứ đồ inox sáng loáng, đều là “hàng nhập”, sản xuất bằng máy, tiện dụng và giá tương đối rẻ. Tôi đã tưởng lịch sử lò rèn đã viết xong phần cáo chung, bèn bắt đầu sưu tập con dao bửa cau cũ xì của bà ngoại như cổ vật quí hiếm. Nghĩ cũng phải, thời đại này ai còn đủ kiên nhẫn mài sắt nên kim, hay dùng sức mạnh cánh tay rèn đập một thỏi sắt thành lưỡi dao mỏng tợ lá lúa?
Khi nhìn một đống dao ở xó nhà ông Chủ nhiệm Hợp tác xã nghề rèn, đủ các cỡ, sắc lẹm, chế tạo thủ công, cán dao cũng được đẽo bằng tay, mỗi con dao là một sản phẩm có đặc điểm riêng, không cố ý, chẳng qua người ta rèn từng cái một nên không cái nào giống y chang cái nào hết, tôi hơi cụt hứng vì con dao cau của bà ngoại tôi xem ra không phải là cổ vật quí hiếm như tôi tưởng. Nhưng một cảm xúc khác lại dào lên mạnh mẽ, hơi khó tả : Nghề rèn vẫn còn, thợ rèn vẫn sống được, những sản phẩm dáng vẻ thô sơ mộc mạc như con dao sắt đen, đầu vuông vức này vẫn tồn tại. Người ta vẫn làm ra ắt vì vẫn bán được, nghĩa là những công cụ thô sơ này vẫn đắc dụng trong nhà lẫn ngoài đồng ở nông thôn.
Để cạnh tranh với hàng cùng loại sản xuất bằng máy hay ngoại nhập, những dao kéo và nông cụ của những lò rèn Hoà Hảo phải đạt hai điều khó khăn : phẩm chất hơn hẳn và giá rẻ hơn. Chẳng hạn, lưỡi hái do máy làm mau cùn lụt, còn lưỡi hái do thợ rèn Hoà Hảo chế tạo có những đường cắt dài và sâu giúp lưỡi bén mà bền. Thợ rèn còn sản xuất theo yêu cầu của từng nông dân, tùy theo thói quen lao động mà người ta muốn có những công cụ “vừa tay” để cho năng suất lao động cao, chẳng hạn lưỡi hái cho người thuận tay trái khác với lưỡi hái thông thường cho người thuận tay phải. Dịch vụ bảo hành cũng quan trọng. Nông dân thích bền, thích “quen” với công cụ mình dùng thường xuyên, cuốc mẻ thích đem sửa lại chứ không ưa mua cuốc mới, đỡ mất công “làm quen”, lưỡi hái mòn thì đem tới lò rèn khía thêm răng, vì cầm lưỡi hái của mình quen tay cắt lúa đỡ mỏi. Người tiêu dùng ở thành thị thích mới nới cũ, nông dân bảo thủ hơn, cái gì xài được xài quen thì cứ xài hoài, thậm chí coi đồ vật của mình thân thiết như người nhà.
Chất lượng đồ sắt lò rèn Hoà Hảo tốt còn nhờ nguyên liệu là sắt đường rầy cũ, tức là sắt “đời Tây”. Trước đây còn mua nguyên xi những thanh tà vẹt mòn rỉ sét của ngành đường sắt thải ra, bây giờ thì nguồn cung cấp sơ chế chúng thành những thanh sắt qui cách theo yêu cầu của lò rèn. Chúng được chở bằng xà-lan hay xe tải về làng. Rồi từ làng này, các sản phẩm uy tín (mỗi sản phẩm đều có khắc dấu, như thợ bạc làm dấu trên sản phẩm kim hoàn của họ) được tiêu thụ khắp đồng bằng sông Cửu Long, một số tỉnh miền Trung, và 30% sản phẩm được xuất sang thị trường Campuchia.
Xóm lò rèn này có lịch sử hơn một trăm năm, những ông tổ nghiệp đã qui tiên, thế hệ thợ thứ hai đã trên tám, chín chục tuổi, công việc hiện nay do thế hệ thợ thứ năm đảm nhiệm. Tưởng công việc nặng nhọc này chỉ dành cho đàn ông, nhưng có đến 91 lao động trong ngành là phụ nữ so với 155 lao động nam. Hợp tác xã hiện nay có 28 xã viên, theo lời ông Chủ nhiệm Phúc, mỗi lò thường chuyên sản xuất một loại dụng cụ, và cả xóm này có khoảng 50 lò hoạt động thường xuyên. Thu nhập của thợ rèn có tay nghề là trên 150.000 đồng một ngày công, cho nên xóm này vẫn còn “giữ được dân”, cuộc sống dạo này cũng khá.
Mỗi năm vài lần, Hợp tác xã đem sản phẩm đi tiếp thị ở các hội chợ. “Bán được lắm”, ông Chủ nhiệm nói, tôi xác nhận, vì chính tôi đã cà rà ở quầy hàng của họ để xem người ta săm soi, hỏi han, rồi mua năm bảy món. Có nhiều thứ cần dùng và tiện dụng, từ các loại kéo cắt cành để làm vườn, trồng kiểng, đến các loại kéo làm bếp, nhỏ để cắt râu tôm, lớn một chút để cắt mang cá, lớn hơn nữa, để làm gì tôi không biết, nhưng bán rất chạy. Lại còn dao các loại. Cả nông cụ cũng bán chạy. Có lẽ nhờ dân thành phố bây giờ nảy sinh thú làm vườn. Nghe các thợ rèn nói, ngày xưa, ông tổ chỉ làm ba món là lưỡi hái, dao phát cỏ và dao xắt thuốc. Bây giờ thì họ làm hơn một trăm sản phẩm đủ loại.
Không phải tôi cổ hủ. Tôi cũng muốn công nghiệp hoá để con người đỡ vất vả. Nhưng thực tế nông nghiệp hiện nay vẫn còn cần những nông cụ thô sơ như cái cuốc và lưỡi hái trong những điều kiện lao động nhứt định, thì những lò rèn Hoà Hảo này mới còn thịnh hành. Và dù trong những căn bếp thiết kế như nhà tây ở đô thị có đủ các máy cắt máy xay máy gọt củ quả, có cả những con dao inox sáng loáng, thì hàng triệu căn bếp nông thôn ám khói vẫn còn thân thuộc với những con dao rèn đơn sơ mà bền bén giắt trên vách.
Sẽ đến một ngày những đồ vật mang dấu lò rèn Hoà Hảo thực sự trở thành cổ vật quí hiếm vì chẳng còn ai sản xuất theo phương pháp cổ truyền nữa. Hoặc vì hợp tác xã cuối cùng cũng phải cơ khí hoá, hoặc những dụng cụ đó không còn được dùng nữa. Ngày ấy có thể còn xa, nhưng tôi cứ nhân chuyến đi về lò rèn mà sưu tập sẵn một mớ.
Lý Lan – Theo SGGP thứ bảy