Tiểu thủ công nghiệp ở Vĩnh Long thời thuộc Mỹ và chính quyền Sài Gòn của miền Nam (1954 – 1975)
19/11/2010Trong thời kỳ (1954 – 1975), do cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước diễn ra liên tục, kéo dài nên hoạt động sản xuất tiểu thủ công nghiệp trong cư dân Vĩnh Long nói riêng và toàn Nam bộ nói chung có chiều hướng giảm sút và đi vào thế bất ổn định vì nhiều nguyên nhân khác nhau : thiếu nguyên liệu sản xuất hoặc bị hạn chế bởi thị trường tiêu thụ… Bên cạch đó, dân số ở các vùng nông thôn có nhiều biến động, một bộ phận không ít cư dân ở đây (trong đó có nhiều thợ thủ công) đã chuyển cư đến các thị trấn, thị xã hoặc đi nơi khác ngoài Vĩnh Long để sinh sống, làm ăn. Vì lẽ đó, cơ cấu ngành nghề tiểu thủ công nghiệp địa phương có sự chuyển dịch, nhiều nghề thủ công cổ truyền đã mất dần vị trí sẵn có của chúng trên địa bàn nông thôn.
Nhìn chung, hoạt động tiểu thủ công nghiệp ở Vĩnh Long vào thời kỳ này được các thành phần cư dân địa phương triển khai chủ yếu tại các khu cư dân đô thị, thị tứ, tập trung tại TXVL và một số nơi khác tương đối thuận lợi, như Long Hồ, Bình Minh, Vũng Liêm, Trà Ôn… chẳng hạn. Theo một số nguồn tài liệu thống kê có được từ năm 1967 đến năm 1971 thì số máy xay xát lúa gạo ở Vĩnh Long đã giảm đi rõ rệt, từ 79 nhà máy (1967) còn lại 66 nhà máy (1971) là do sản xuất nông nghiệp trồng lúa của địa phương cũng như toàn vùng ĐBSCL sa sút, đặc biệt là từ năm 1964 trở về sau, chính quyền cũ ở miền Nam Việt Nam buộc phải nhập khẩu lúa gạo để nuôi sống bộ máy phục vụ cho cuộc chiến tranh phi nghĩa của họ (20). Ở Vĩnh Long, diện tích các loại cây trồng ngoài cây lúa thường dùng để làm nguyên liệu sản xuất tiểu thủ công nghiệp chế biến thực phẩm như đậu phộng, đậu nành, mía… nhất là diện tích cây mía cũng “cùng chung số phận” với cây lúa là giảm mạnh, từ 650 ha mía năm 1969 xuống còn 350 ha mía năm 1971 (21). Điều đó dẫn đến hệ quả là các nghề thủ công cổ truyền như làm tàu hũ ky, ép dầu phông, ép mía lấy đường… trong nông thôn Vĩnh Long đã thu hẹp lần hồi. Năm 1967, tỉnh Vĩnh Long chỉ có 2 lò chao, một lò tàu hũ ky, 23 lò tương, 7 lò đường (22). Trong khi đó, các ngành nghề chế biến nước mắm, làm bánh mỳ, cưa xẻ gỗ, làm mộc, làm gạch ngói có số lượng cơ sở tương đối nhiều hơn (35 hãng nước mắm, 15 lò bánh mỳ, 16 trại cưa, 56 trại mộc, 40 lò gạch), nhưng mạng lưới của chúng chủ yếu tập trung ở TXVL và phần nào đó là ở thị trấn của các huyện trong tỉnh (23). Cũng theo các nguồn số liệu thống kê cho thấy, các trại cưa xẻ gỗ có chiều hướng tăng trưởng hơn, từ 16 trại cưa (1967) lên 25 trại cưa (1971) (24) để đáp ứng nhu cầu sản xuất của nghề mộc để xây cất nhà cửa, làm đồ gia dụng và nghề đóng ghe xuồng để đi lại, vận chuyển, đánh bắt cá trong sông ngoài biển. Số ghe xuồng đánh bắt cá có gắn máy nổ của Vĩnh Long có tăng cao, từ 425 chiếc năm 1968 lên 500 chiếc năm 1972. Ngược lại, số ghe xuồng đánh bắt không gắn máy giảm xuống từ 702 chiếc năm 1968 còn 350 chiếc năm 1972 (25). Riêng nghề chế biến nước mắm được phát triển trên cơ sở khai thác nguồn thủy sản có được ở Vĩnh Long, khoảng trên 5.000 tấn mỗi năm từ 1970 – 1975 và sản lượng nước mắm năm 1972 đạt được một triệu lít (26).
TS VÕ CÔNG NGUYỆN – Theo sách Tìm hiểu Văn hóa Vĩnh Long
—————————————-
(20) Huỳnh Minh, Sđd, tr.362 – 363 và Niên giám thống kê Việt Nam, Viện Quốc gia thống kê xuất bản, Sài Gòn, 1972, tr.254
(21) Niên giám thống kê Việt Nam, Sđd, tr.316
(22) Huỳnh Minh, Sđd, tr.362
(23) Huỳnh Minh, Sđd, tr.362
(24) Niên giám thống kê Việt Nam, Sđd, tr.175
(25) Niên giám thống kê Việt Nam, Sđd, tr.330 và 331
(26) Niên giám thống kê Việt Nam, Sđd, tr.330 và 331