Viện sĩ Trần Đại Nghĩa (1913 – 1997)

Trần Đại Nghĩa tên thật là Phạm Quang Lễ, sinh ngày 13/9/1913 tại xã Hòa Hiệp, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long. Cha ông là Phạm Quang Mùi, một nhà nho nghèo, về sau học tiếng Pháp, thi đỗ Thành chung rồi đi dạy tiểu học, mất năm ông mới 7 tuổi (1920). Mẹ là Phạm Thị Diệu, cùng với người chị hơn ông một tuổi (phải nghỉ học) đã vất vả nuôi ông ăn học.

Sống trong gia đình nghèo và mồ côi cha sớm, Trần Đại Nghĩa đã chứng kiến và căm phẫn cảnh thực dân Pháp chà đạp, bóc lột nhân dân ta.

Sự căm phẫn trong lòng non trẻ của ông thời ấy đã chuyển thành hoài bão “cố gắng học để sau này cùng nhân dân đấu tranh giải phóng đất nước”. Mười năm sau, ông khoảng 20 tuổi (1933), lúc ông học xong bậc trung học tại Sài Gòn thì hoài bão kia mới có dấu hiệu được cụ thể hoá và dự báo một kế hoạch dài hạn của tương lai đời ông.

Trong thời gian này, những phong trào yêu nước (phong trào đòi ân xá cụ Phan Bội Châu, đám tang cụ Phan Chu Trinh, phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh… ) tác động nhiều đến tình cảm yêu nước của ông, khơi dậy trong ông sự quan tâm nghiên cứu những vấn đề lịch sử dân tộc. Trần Đại Nghĩa đặc biệt nghiên cứu giai đoạn chống thực dân Pháp và tự mình rút ra nguyên nhân thất bại của các phong trào yêu nước từ đầu thế kỷ XIX đến bấy giờ : không chịu tiếp thu cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ nhất (đối với triều đình Nhà Nguyễn), thiếu vũ khí cần thiết (đối với các phong trào yêu nước của các sĩ phu). Bấy giờ, hoài bão của ông được chính xác hóa : “Tham gia về khoa học và chế tạo vũ khí trong cuộc đấu tranh vũ trang của nhân dân để giải phóng đất nước”.

Năm 1933, Trần Đại Nghĩa thi đỗ hai bằng Tú tài (Tây và bản xứ). Vì nhà nghèo, Trần Đại Nghĩa không thể ra Hà Nội học đại học, đành trở về Mỹ Tho làm thư ký quèn để kiếm tiền giúp mẹ và chị. Thời gian này, ông có tự học thêm về luật. Hai năm sau, ông Dương Văn Ngưu, một nhà báo yêu nước, mến mộ tài và chí của Trần Đại Nghĩa, đã giúp ông có được suất học bổng của Trường Chasseloakp Laubat.

Ngày 5/9/1935, Trần Đại Nghĩa đã rời Sài Gòn sang Pháp.

Tháng 6/1936, ông thi đậu vào Trường Đại học Quốc gia Cầu đường (Eùcole nationale Jesponts et chaussés).

Trên cơ sở các sự kiện thế giới, sự ước lượng Chiến tranh Thế giới thứ 2 của các chuyên gia, Trần Đại Nghĩa suy nghĩ và đi đến kết luận : “ …Trong cuộc chiến đó, các đế quốc sẽ bị suy yếu nhiều và cách mạng Việt Nam có cơ hội phát triển tốt. Như vậy, tôi sẽ có 10 đến 11 năm ở bên Pháp để tự học về vũ khí và khoa học kỹ thuật quân sự, tốt nhất là học xong về cơ bản trước khi chiến tranh thế giới bùng nổ và trong chiến tranh đó sẽ hoàn chỉnh chính thức, đồng thời phải tổng kết được các kinh nghiệm của chiến tranh thế giới vô cùng quý giá đối với cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam. Tất nhiên, công tác chuẩn bị phải được thực hiện một cách tuyệt mật”. Phải nói thêm điều cơ bản này : Những câu chuyện kể về gương sáng đạo đức của nhà cách mạng lão thành Nguyễn Ái Quốc cũng như lời của Bác “Chỉ có chủ nghĩa Mác – Lênin mới giải phóng Việt Nam khỏi vòng nô lệ”, ông được nghe các Việt kiều ở Pháp nói và kể lại lúc ấy đã thúc đẩy sự chuẩn bị và nâng cao quá trình thực hiện dự kiến trong tương lai của ông. Về sau này, Trần Đại Nghĩa gọi đó là sự cảm hóa của Bác Hồ đối với ông trước khi ông gặp Người ở Pháp.

Thời gian này, Trần Đại Nghĩa nhận được tin đau buồn : mẹ mất (1940). Nỗi đau này càng thúc đẩy ông làm việc và học tập. Trần Đại Nghĩa vừa học Trường Quốc gia Cầu đường, vừa học Đại học Xoócbon, Viện Khí động học, Học viện Thống kê, trường Cao đẳng Kỹ thuật điện, đồng thời tự nghiên cứu những vấn đề về chế tạo và sử dụng thuốc nổ, về thiết kế chế tạo súng nhỏ, súng lớn. Sở dĩ ông phải tự nghiên cứu vì một số trường đại học ở Pháp bấy giờ có dạy những môn học có liên quan đến thiết kế chế tạo vũ khí, tuyển sinh rất khắt khe, tuyệt đối không nhận người thuộc địa, kể cả người đã nhập quốc tịch Pháp, còn bản thân sinh viên Pháp cũng bị xét xử lý lịch rất kỹ. Ngoài ra, Trần Đại Nghĩa còn nghiên cứu mối quan hệ giữa vũ khí với quân sự, đánh giá đường lối quân sự của các nước tư bản… cũng như nghiên cứu thêm về khoa học kinh tế và khoa học quản lý.

Ngày 5/7/1946, cùng với hàng vạn Việt kiều tại Pháp, Trần Đại Nghĩa đến sân bay Le Beurget kính đón Bác Hồ khi Bác đến thăm nước Pháp theo lời mời của chính phủ Pháp.

Hai tháng sống bên Bác (từ tháng 7/1946 đến tháng 9/1946), Trần Đại Nghĩa đã báo cáo với Bác Hồ về tất cả những điều mình biết về Chiến tranh Thế giới lần thứ 2, đặc biệt về quá trình làm việc, học tập, nghiên cứu của bản thân mình. Đến ngày 8/9/1946, Bác Hồ gọi Trần Đại Nghĩa đến, cho biết là Hội nghị Phôngtenơblô không thành và bảo : “Bác về nước, chú chuẩn bị về với Bác. Hai ngày nữa ta lên đường”. (“Bác Hồ – niềm tin của đời tôi”, Trần Đại Nghĩa, SĐD, trang 36 – 37).

Từ cảng Tu-lông, sau 40 ngày lênh đênh trên mặt biển trong con tàu chiến Đuy-mông Đuyêc-vin của Pháp, ngày 20/10/1946, Bác Hồ, bác sĩ Trần Hữu Tước, kỹ sư Võ Quí Huân, kỹ sư Vũ Đình Huỳnh và kỹ sư Phạm Quang Lễ (Trần Đại Nghĩa) đến Hải Phòng.

Sau này, Trần Đại Nghĩa nhớ mãi lớp chính trị Bác dạy trong 40 ngày ấy – lớp chính trị chính thức đầu tiên, có hiệu quả rất lớn trong đời ông – và kỷ niệm : “Sáng hôm sau (tức là ngày 11/9/1946 – ghi chú của người viết), bảy giờ tới Lyon. Trời tối, anh em rủ nhau đi chơi cả, trên tàu còn có một mình Bác và tôi, Bác chỉ hỏi tôi có hai câu. Câu thứ nhất : “Bây giờ ở nhà cực khổ lắm, chú về có chịu nổi không?”. Tôi trả lời : “Thưa Bác, tôi chịu nổi”. Câu thứ hai Bác hỏi là : “Bây giờ ở nhà, kỹ sư, công nhân về vũ khí không có. Máy móc thiếu, liệu chú có làm được việc không?”. Tôi nói : “Thưa Bác, tôi đã chuẩn bị 11 năm rồi và tôi tin là làm được”. Bác chỉ hỏi có hai câu thôi và tất nhiên là hai câu cơ bản nhất của lãnh tụ”. Đối với Trần Đại Nghĩa, những điều Bác Hồ dạy ông trong hai tháng được gần Bác tại Pháp và bốn mươi ngày sống lênh đênh trên mặt biển cùng với Bác Hồ là sự cảm hóa của Bác Hồ sau khi ông được gặp Người.

Về nước được một tuần, Phạm Quang Lễ được điều lên Thái Nguyên chế tạo súng, đạn chống xe tăng theo mẫu Badôca lấy trong kho vũ khí của quân đội Nhật. Công việc đang tiến hành thì thực dân Pháp bắn phá Hải Phòng, Bộ Quốc phòng gọi ông về Hà Nội.

Ngày 5/12/1946 (đúng hai tuần trước khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ), tại Bắc bộ phủ, Bác Hồ trực tiếp giao cho Phạm Quang Lễ làm Cục trưởng Cục Quân giới và đặt tên mới cho ông là Trần Đại Nghĩa để giữ bí mật cho ông và cho gia đình, bà con ông còn ở trong miền Nam.

Ngay từ những ngày đầu cuộc kháng chiến, Trần Đại Nghĩa đã chế tạo các loại lựu đạn, súng phóng lựu, súng cối 50,8 li, mìn phá xe… để kịp thời phục vụ cuộc chống trả 9 tuần lễ tiến công của thực dân Pháp tại Thủ đô.

Sau đó lên chiến khu, trong điều kiện thiếu thốn mọi bề, Trần Đại Nghĩa đã lấy diêm tiêu trong phân dơi làm thuốc súng, đường ray xe lửa làm nòng súng cối 50,8 li, rồi bình ôxy làm nòng súng cối 205 li… Đặc biệt, sau bao nhiêu lần thất bại, Trần Đại Nghĩa đã chế tạo thành công súng badôca trên cơ sở phải thiết kế lại toàn bộ quả đạn badôca của Mỹ cho phù hợp điều kiện tác chiến của chiến trường Việt Nam. Badôca do Trần Đại Nghĩa chế không chỉ có tác dụng chống xe tăng, mà còn có tác dụng đánh tàu chiến chạy gần bờ hoặc dập tắt hỏa lực hay bắn tan đội hình địch.

Ngày 5/3/1947, trong trận phục kích trên đường số 6 tại xóm Trầm (cách Hà Nội khoảng 30 km), những quả đạn badôca bất ngờ bắn vào đội hình xe tăng của Pháp. Đoàn xe quay đầu chạy về Hà Nội.

Chính loại badôca đó đã phục vụ kịp thời và có hiệu quả trong chiến dịch Thu Đông 1947 – 1948 mà thực dân Pháp, trong sự khiếp sợ, gọi là chiến dịch Xtalingrat.

Ngay giữa chiến dịch, năm 1947 – năm chuẩn bị giai đoạn đánh tập trung của bộ đội chủ lực, Trần Đại Nghĩa được chỉ định làm Cục trưởng Cục Pháo binh kiêm Cục trưởng Cục Quân giới. Sau chiến dịch này, Trần Đại Nghĩa được phong tặng quân hàm Thiếu tướng ở Quân khu 3.

Năm 1949, Trần Đại Nghĩa được kết nạp vào Đảng Lao động Việt Nam không qua thời gian thử thách.

Năm 1950, Trần Đại Nghĩa làm Thứ trưởng Bộ Công nghiệp.

Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp chuyển sang giai đoạn tiến công, Trần Đại Nghĩa nghiên cứu và chế tạo thành công súng SKZ. Đây là loại đại bác không giựt, chỉ nặng từ 20 đến 30 kg, bắn đạn lõm, mỗi viên nặng 8 kg, đường kính 160 li, chuôi đạn bằng gỗ, rất tiện lợi đối với chiến trường Việt Nam. Đây là loại vũ khí nổi tiếng trong giới quân sự thế giới, làm thực dân Pháp hoảng sợ. Đồng thời, Trần Đại Nghĩa còn chế tạo loại tên lửa nặng 30 kg, gọi là bom bay, có thể đánh mục tiêu cách xa 4 km. Những loại vũ khí đặc biệt này đã gây kinh hoàng cho lực lượng thực dân Pháp ở khắp ba miền Bắc, Trung và Nam bộ.

Trần Đại Nghĩa nhiều lần được Hồ Chủ tịch, Chính phủ và Bộ Quốc phòng tuyên dương thành tích, được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng 3. Trong Đại hội liên hoan Anh hùng và Chiến sĩ thi đua toàn quốc ngày 1/5/1952, Trần Đại Nghĩa được Chính phủ và Hồ Chủ tịch tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Nhất và danh hiệu Anh hùng Lao động.

Sau hiệp định Giơnevơ (1954), Trần Đại Nghĩa cùng nhiều anh em quân giới được chuyển ra khỏi quân đội, làm Chủ nhiệm Ủy ban xây dựng cơ bản Nhà nước và Ủy ban khoa học kỹ thuật Nhà nước, Viện trưởng Viện Khoa học Việt Nam.

Sau sự kiện Vịnh Bắc bộ (1965), Trần Đại Nghĩa báo cáo trực tiếp với Bác Hồ về các biện pháp phòng thụ động để giảm thiệt hại, hy sinh trong chiến tranh phá hoại của Mỹ. Ý kiến của ông được chấp nhận và được triển khai trong cả nước.

Đầu năm 1966, theo ý kiến của Bác Hồ, Trần Đại Nghĩa nhận chức Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, phụ trách về kỹ thuật quốc phòng. Trong thời gian chống Mỹ, ông đã dùng phần lớn thời gian cho công tác này.

Sau đó,, Trần Đại Nghĩa còn làm Chủ tịch các Hội Liên hiệp khoa học kỹ thuật Việt Nam, Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô và CHDC Đức.

Ông qua đời năm 1997 tại thành phố Hồ Chí Minh.

Theo Đào Ngọc Chương – Sách Nhân vật chí tỉnh Vĩnh Long vinhlong.gov.vn

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *