Bà Bùi Thị Mè – một nhà giáo yêu nước, quê ở xã Quới An, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long – là một trong những người trí thức đã sớm giác ngộ đến với cách mạng và đi theo Đảng.
Bùi Thị Mè (còn gọi là Năm Mè) sinh ngày 26/6/1928, trong một gia đình trí thức. Cha là Bùi Văn Tám và mẹ là Võ Thị Quý. Từ nhỏ, bà Bùi Thị Mè đã được cha mẹ nuôi ăn học chu đáo. Vốn thông minh, bà học rất giỏi. Qua bậc tiểu học ở Cái Nhum, bà lên Vĩnh Long, ở nhờ nhà người bà con, tiếp tục thi vào trường Nữ học đường ở thị xã Vĩnh Long, đậu nội trú và sau 4 năm thi đỗ bằng Thành chung. Chồng bà là ông Nguyễn Văn Nhơn, sinh năm 1916, là một giáo chức ở xã An Thạnh – Mỏ Cày – Bến Tre.
Năm 1946, khi thực dân Pháp bội ước, trở lại xâm chiếm Nam bộ, đôi vợ chồng trẻ Nguyễn Văn Nhơn – Bùi Thị Mè, với danh nghĩa là những thương gia, đã có những hoạt động hợp pháp ủng hộ kinh tế cho cuộc kháng chiến. Lúc Bến Tre bị địch chiếm, vợ chồng bà sang Bãi Xan thuộc xã Đức Mỹ, quận Càng Long, tỉnh Trà Vinh. Vì con đông và còn nhỏ, không thể thoát ly vào chiến khu, bà tìm cách liên lạc với Tỉnh ủy Trà Vinh để hoạt động hợp pháp cho cách mạng. Đầu tiên, bà bắt tay vào mở một trường Trung học tư thục ở xã Long Đức, quận Châu Thành, tỉnh Trà Vinh, do bà làm Hiệu trưởng. Đó là năm 1950, khi bà tròn 29 tuổi. Với bề ngoài là một trường trung học để tránh con mắt dò xét của mật thám Pháp, nhưng bên trong, trường là một cơ sở hợp pháp của Tỉnh ủy Trà Vinh. Năm 1955, Tỉnh ủy Trà Vinh bố trí bà làm Tổng Thư ký Hội Phụ nữ yêu nước của tỉnh. Bà còn là Ủy viên Ban Chấp hành Hội Chẩn tế – Xã hội tỉnh Trà Vinh. Từ những năm 1950 đến 1957, bà hoạt động hợp pháp dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Tỉnh ủy Trà Vinh. Bà là một trong những người có uy tín để tiếp xúc với nhiều đối tượng như trí thức, thương gia, các tầng lớp xã hội khác để vận động họ ủng hộ phong trào kháng chiến, chống thực dân xâm lược.
Năm 1957, bọn địch nghi ngờ cơ sở của bà, chính quyền Ngô Đình Diệm ra lệnh đóng cửa trường Trung học tư thục Long Đức do bà làm Hiệu trưởng. Với sự khôn khéo, thông minh, bà về Sài Gòn, gặp Bộ trưởng Bộ Giáo dục của chính quyền Ngô Đình Diệm để chất vấn (bà vẫn chưa bị lộ). Mục đích của bà là gây mâu thuẫn giữa Bộ Giáo dục và chính quyền của chế độ Ngô Đình Diệm tại địa phương để tạo cho mình một thế hợp pháp. Bà đấu tranh thắng lợi, được dạy kèm trẻ em tại nhà và vẫn được ở lại Trà Vinh để hoạt động.
Năm 1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập. Được Tỉnh ủy Trà Vinh giới thiệu, bà vào công tác ở Khu uỷ Khu Tây Nam bộ. Bà là thành viên của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Khu Tây Nam bộ và là Ủy viên Ủy ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.
Năm 1964, bà được rút về Trung ương Cục miền Nam, công tác ở bộ phận tuyên truyền đối ngoại của Ban Tuyên huấn Trung ương Cục. Sau đó, bà được tổ chức bố trí sang công tác ở Ban Phụ vận của Trung ương Cục.
Năm 1965, tại Đại hội Phụ nữ Giải phóng miền Nam Việt Nam, bà được bầu vào Ban Chấp hành Hội Phụ nữ Giải phóng, đồng thời được phân công kiêm nhiệm Phó Chủ tịch Hội Nhà giáo yêu nước miền Nam Việt Nam.
Trước tình hình phát triển của cách mạng miền Nam, với sự chỉ đạo của Trung ương Đảng và Trung ương Cục miền Nam, chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam được thành lập vào năm 1969 do kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát làm Chủ tịch. Bà được phân công giữ chức vụ Thứ trưởng Bộ Y tế – Xã hội – Thương binh, chuyên trách công tác xã hội – thương binh của chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam. Trên cương vị là Thứ trưởng Bộ Y tế – Xã hội – Thương binh, suốt từ 1969 đến 1976, bà đã có nhiều hoạt động sôi nổi, sâu sát cơ sở, phong trào, đóng góp công lao nhất định vào cuộc cách mạng giải phóng miền Nam Việt Nam. Với tác phong giản dị, tính tình hiền lành, dễ gần gũi, hiểu người và hiểu đời, người nữ Thứ trưởng duy nhất trong Bộ Y tế – Xã hội – Thương binh đã góp phần chỉ đạo công tác y tế – xã hội – thương binh ở miền Nam, phục vụ cho sự nghiệp đấu tranh chống Mỹ cứu nước. Năm 1974, theo yêu cầu của cách mạng cần mở rộng công tác tuyên truyền đối ngoại để bạn bè năm châu hiểu thêm về cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước thống nhất nước nhà của nhân dân miền Nam, bà được Trung ương Cục cử ra Hà Nội công tác một năm, dự Đại hội Phụ nữ Việt Nam. Tại miền Bắc, bà đã tiếp xúc với nhiều đoàn phụ nữ quốc tế. Với vốn tiếng Pháp khá phong phú của mình cộng với sự thông minh nhanh nhẹn của một nhà giáo, bà đã để lại những ấn tượng tốt đẹp cho các đoàn phụ nữ Liên Xô, Cu-ba, An-giê-ri v.v… Qua bà và các đại biểu phụ nữ ở Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, bạn bè quốc tế hiểu thêm về cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam chống Mỹ – Thiệu, hiểu thêm về những người phụ nữ miền Nam anh hùng, bất khuất đang đấu tranh giành độc lập tự do. Sau Đại hội, bà được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, được Trung ương Hội cử đi dự Đại hội Phụ nữ ở An-giê-ri, Cu-ba.
Tháng 1/1974, bà gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Về sự kiện này, bà tâm sự : “Đối với tôi, Đảng đã ở trong tim từ những ngày đầu tham gia vào cuộc kháng chiến chống Pháp”.
Đối với bà, thế mạnh trong công tác vận động phụ nữ, trí thức, quần chúng đạt kết quả cao do bà có vốn học thức cơ bản, có lòng can đảm, quyết tâm, có tình thương đồng chí, đồng bào, nhân hậu. Trong những năm chiến tranh, dù hoạt động công khai hay bí mật, đi đến đâu, bà cũng được nhân dân đùm bọc, che chở. Bà kể lại : “Có nhiều trận địch càn quét, bị mắc kẹt trong vòng vây của bọn giặc nhưng đồng bào hết lòng che chở mới thoát khỏi kẻ thù”. Bà luôn luôn tin nhân dân, tôn trọng nhân dân, giữ được mối quan hệ tốt đẹp với đồng bào theo lời Bác Hồ dặn. “Đi dân nhớ, ở dân thương” là bí quyết thành công trong công tác vận động quần chúng của mình. Nhiều học trò của bà giác ngộ, tham gia cách mạng.
Với cuộc đời người mẹ, bà cũng là một trong những người phụ nữ đã chịu đựng nhiều hy sinh qua hai cuộc chiến tranh. Trong 4 người con của bà đi tham gia kháng chiến, ba người con là liệt sĩ, một người là thương binh. Nỗi mất mát trong chiến tranh không thể nào bù đắp được. Tuy nhiên, đối với một người trí thức đã quyết định đi theo cách mạng khi vừa 18 tuổi, cho đến nay đã 80 tuổi đời luôn có niềm tin vào với Đảng, với Bác Hồ, với Tổ quốc và nhân dân.
Bà được Nhà nước phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng cùng nhiều huân, huy chương cao quý :
– Huân chương Độc lập hạng Ba
– Hai Huân chương Giải phóng hạng Nhất và hạng Nhì
– Huân chương chống Mỹ cứu nước hạng Nhất
– Huân chương Quyết thắng hạng Nhất
– Huy hiệu Bác Hồ của thành phố Hồ Chí Minh
– Huy chương Vì sự nghiệp giải phóng phụ nữ
Bà là Người mẹ Việt Nam anh hùng tiêu biểu tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Theo Phạm Bá Nhiễu – Sách Nhân vật chí tỉnh Vĩnh Long