Sau đó, Bộ Tư lệnh Miền điều động ông Phạm Ngọc Hưng về làm Tham mưu phó Phân Liên khu miền Tây. Tháng 6/1951, tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh được sát nhập thành tỉnh Vĩnh Trà, trực thuộc Phân Liên khu miền Tây. Tỉnh đội Vĩnh Trà cũng được thành lập do ông Lê Quốc Sản làm Tỉnh đội trưởng (*), ông Phạm Ngọc Hưng giữ chức Tỉnh đội phó Tỉnh đội Vĩnh Trà và là Ủy viên BCH Tỉnh Đảng bộ Vĩnh Trà. Đầu năm 1953, trong khóa học chỉnh Đảng ở Liên khu 5, ông Phạm Ngọc Hưng được Xứ ủy Nam bộ cử đi học 3 tháng rồi ra Bắc học tập kinh nghiệm đánh du kích trên tuyến đường 5 Hà Nội – Hải Phòng. Năm 1954, sau khi dự lớp tổng kết chiến dịch Điện Biên phủ, ông được cấp trên cử đi học lớp nghiên cứu chiến đấu về tấn công – phòng ngự theo “chính quy chiến” do chuyên gia Trung Quốc giảng dạy. Mãn lớp học, ông được điều về Trung đoàn 660 miền Nam thuộc Quân khu 3 làm Trung đoàn trưởng. Năm 1960, Lữ đoàn 338 thành lập, ông được điều về làm Tham mưu phó rồi Tham mưu trưởng Lữ đoàn. Khi Bộ Quốc phòng thành lập Sư đoàn 338 năm 1961, ông được điều về làm Tham mưu phó Quân khu 3. Đến năm 1963, ông được điều trở về Sư đoàn 338 làm Sư trưởng. Sư đoàn lúc này vẫn tiếp tục làm công tác huấn luyện đi B. Hơn 10 năm ở miền Bắc, ông được điều động giữ nhiều chức vụ quan trọng trong các đơn vị quân đội. Điều vinh dự cho ông là trong thời gian ở Lữ đoàn 338, Sư đoàn 338, ông đã nhiều lần cùng đơn vị được đón tiếp Bác Hồ tới thăm và chỉ bảo nhiệm vụ huấn luyện. Những lần đón Bác đến thăm, ông không bao giờ quên những lời dạy bảo của Bác với đơn vị. Tư tưởng quân sự của Bác được ông tâm đắc, thấm thía, nghiên cứu và vận dụng trong cả cuộc đời binh nghiệp của mình. Trong một lần Bác đến thăm lớp tổng kết chiến dịch Điện Biên phủ, ông còn nhớ như in, Bác đã đưa hai bàn tay ra trình bày về thế tương quan lực lượng của ta và địch, tay này nâng lên, tay kia hạ xuống và ngược lại. Người trình bày bằng hình ảnh tương quan ta – địch để giải đáp cho bộ đội về việc ký Hiệp định Giơ-ne-vơ, phân chia hai miền ở vĩ tuyến 17. Tư tưởng quân sự và cách thể hiện của Bác đã in sâu trong trí nhớ ông Phạm Ngọc Hưng.

Tạm biệt miền Bắc, tháng 5/1965, ông được trên điều vào chiến trường miền Nam. Khi vào đến Bộ Tư lệnh Miền, ông được cử giữ chức vụ Phó Tư lệnh Quân khu 9, Đảng ủy viên Quân ủy Quân khu 9. Với nhiệm vụ chỉ đạo phong trào chiến tranh du kích, đưa phong trào lên cao như trước năm 1964, tạo điều kiện cho bộ đội chủ lực hoạt động chủ động hơn, Quân khu 9 đã nhanh chóng khôi phục được phong trào khá vào năm 1967.

Năm 1969, Bộ Tư lệnh Miền rút ông về làm Tham mưu phó Miền kiêm Trưởng phòng Dân quân của Bộ Tư lệnh Miền. Năm 1971, sau khi hai đồng chí Phó Tư lệnh Quân khu 9 (Ba Mai và Hai Đức) hy sinh, ông được điều động trở lại làm Phó Tư lệnh Quân khu 9. Cùng với Tư lệnh Quân khu, ông đã góp phần xây dựng lực lượng quân khu, tăng cường sức chiến đấu của các sư đoàn chủ lực cũng như sự phối hợp linh hoạt với các lực lượng địa phương quân của các tỉnh. Năm 1972, ta bổ sung lực lượng vũ trang quân khu, tham gia chiến dịch 1972 diệt được nhiều địch, giải phóng nhiều vùng nông thôn. Thắng lợi của Quân khu 9  góp phần vào thắng lợi chung trên chiến trường miền Nam, buộc đế quốc Mỹ ký Hiệp định Paris (27/1/1973). Bọn Mỹ – Thiệu phá hoại Hiệp định, lực lượng vũ trang Quân khu 9 đã kiên quyết giáng trả để giữ đất, bảo vệ dân, không cho chúng lấn chiếm.

Cuối năm 1973, Tư lệnh Quân khu 9 được điều về Bộ Quốc phòng Miền, ông Phạm Ngọc Hưng lên thay, làm Tư lệnh Quân khu 9. Ông cũng được bầu làm Ủy viên Thường vụ Khu ủy Khu 9.

Tình hình chung trên chiến trường Khu 9 lúc này rất có lợi cho cách mạng. Địch đã có nhiều dấu hiệu suy yếu, khó bắt lính, đôn quân. Phong trào của ta ở các tỉnh mạnh lên. Mỗi tháng, ta đều mở chiến dịch tổng hợp quy mô toàn khu để mở rộng vùng giải phóng. Năm 1954, lực lượng vũ trang trên toàn chiến trường quân khu thắng lớn, góp phần tạo đà tạo thế cho những chiến thắng vĩ đại trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đánh sụp toàn bộ các căn cứ địch, giải phóng khu trong các ngày 30/4/1975 và 1/5/1975.

Hòa bình lập lại. Trung ương và Bộ Quốc phòng sát nhập Quân khu 8 và Quân khu 9 thành Quân khu 9. Thiếu tướng Phạm Ngọc Hưng được cử giữ chức Phó Tư lệnh Quân khu 9. Đầu năm 1976, khi bàn giao Tư lệnh Quân khu cho ông Sáu Nam, trên cương vị Phó Tư lệnh Quân khu, ông đi chỉ đạo Sư đoàn 8 và Sư đoàn 4 làm nhiệm vụ kinh tế. Do tuổi cao, sức khỏe sút giảm, năm 1983, ông nghỉ dưỡng bệnh và sau đó được giải quyết chính sách nghỉ hưu. Ông về sống với gia đình tại Phường An Thới – thành phố Cần Thơ.

Ngày 6/11/1999, nhằm ngày mùng 9 tháng mười năm Kỷ Mão, do bệnh nặng, ông Phạm Ngọc Hưng từ trần, thọ 81 tuổi.

Gần 40 năm tuổi quân, cuộc đời binh nghiệp của Thiếu tướng Phạm Ngọc Hưng luôn luôn biểu hiện rõ phẩm chất “anh bộ đội cụ Hồ”. Từ một người lính của chế độ cũ giải ngũ, ông giác ngộ đi theo cách mạng và trung kiên, dũng cảm qua nhiều chiến trường ác liệt, trở thành chỉ huy các đơn vị và Quân khu 9 anh hùng. Anh em bộ đội trong quân khu, những người đã từng cùng xông pha chiến đấu, từng chung sinh hoạt, gặp gỡ với ông đều nói về vị tướng chỉ huy của mình là người trọng kỷ luật, thương người, trọng nhân cách sĩ quan – chiến sĩ. Ông rất tự hào về con đường mình đã chọn. Hai người con của ông, một trai và một gái, cũng đã chọn con đường binh nghiệp.

Qua chiến đấu, Thiếu tướng Phạm Ngọc Hưng đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng :

– Huân chương Độc lập hạng Nhất

– Huân chương Kháng chiến hạng Nhất

– 2 Huân chương Quân công hạng Nhất

– 3 Huân chương Giải phóng hạng Nhất, Nhì, Ba

– 3 Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba

– Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng

– Huy hiệu Thành đồng Tổ quốc

– Huy hiệu Chiến dịch Hồ Chí Minh.

————————

(*) Thiếu tướng, đã từ trần

PHẠM BÁ NHIỄU – Theo sách Những người con trung hiếu

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *