TỪ TRUNG NGÃI ĐẾN AN LONG

Nhớ hồi tháng 7/1930, lúc đó, tôi còn đi học ở Giồng Ké, gặp đoàn biểu tình rất đông, đi chật cả lộ. Nghe đâu đứng đầu là ông Sáu Lẹ, Chín Phẩm, Năm Ngò. Kéo từ An Trường – thị trấn Càng Long (lúc đó ở xã Bình Phú) rồi kéo lên Mỹ Cẩm, Giồng Ké đòi giảm thuế, giảm tô tức. Người đi biểu tình đông, bà con nhóm chợ, học sinh chạy theo coi, nên lực lượng kéo dài cả mấy trăm thước. Dư luận nói Sáu Lẹ – công tử Lẹ như cỡ thầy chú con nhà giàu – mà đi biểu tình dẫn đầu mới là lạ. Còn có người nói, cộng sản nổi dậy rồi. Nổi sóng gió ở An Trường dữ lắm!

Anh Lê Quang Phòng và anh Nguyễn Tấn Điện thường cho tôi đọc báo Dân chúng. Không rõ có bao nhiêu người đọc, mà tờ báo đưa đến tôi bị nhàu nát. Gặp tôi, anh nói, Cách mạng tháng Mười Nga giành thắng lợi, dân được độc lập, không còn ách áp bức, bóc lột. Cái gốc là bên đó có tổ chức, có người lãnh đạo, có đường lối. Sau đó, các anh giáo dục tôi tham gia vào Hội tương tế, Hội ái hữu ở xã Trung Ngãi (5/1937). Do hoạt động tích cực, tháng 8/1938, tôi rất vui mừng vào Đảng và tháng 2/1939, tôi được phân công làm Bí thư Chi bộ xã Trung Ngãi.

Biết chữ mà không ra làm làng hoặc thầy ký, mà ở nhà làm ruộng, giao du với nông dân, cho nên, bọn địch hay để ý. Làm cách mạng trong lòng địch khi Đảng chưa nắm chính quyền, hoạt động hết sức bí mật, nhưng phải công khai tuyên truyền ra dân, không cách nào khác, trong khi địch bắt đầu kiểm soát và khủng bố một số nơi. Mỗi lần đi sinh hoạt Chi bộ, nghe phổ biến chủ trương thì tổ chức dạng đi cắm câu, soi cá, đánh chim để gặp mặt, còn tổ chức mít-tinh thì đi vô đồng Cà Dăm hay Đìa Chảo – xã Trung Hiếu. Nhiều lần mít-tinh đông cả 100 người. Rồi người này truyền lại người khác. Khí thế quần chúng tăng lên như có luồng gió mới thổi về.

Tình hình địch kiểm soát gắt, nhưng binh lính thì lo lắng hoang mang, sợ bị bắt đi lính sang châu Âu chết thay cho quân Pháp. Trước tình hình đó, ta đẩy mạnh tuyên truyền thanh niên không để bị bắt lính. Nếu bị bắt thì rã ngũ, trốn đi nơi khác làm ăn, thà chết ở Việt Nam, không đi lính sang Pháp chết thay cho chúng. Các tổ chức cách mạng có rèn mã tấu, tầm vông vạt nhọn, tập bắn súng lửa, súng hơi trong tư thế nổi dậy giành chính quyền.

Vừa chạng vạng tối, tại ấp Trà Khang (xã Trung Thành), chị Nguyễn Thị Hồng, Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy, thay mặt Ban chỉ đạo khởi nghĩa phổ biến : Tối 22 rạng 23/11/1940, đồng loạt khởi nghĩa. Chị Hồng chỉ đạo, chị cùng các đồng chí Phan Ngọc Yến, Đỗ Văn Viên tấn công dinh quận. Mũi đồng chí Sáu Lục Lạc (Võ Văn Kiệt) tấn công hướng Bắc Nước Xoáy. Mũi của tôi, theo kế hoạch, tấn công vào tề xã Trung Ngãi, phá cầu Mây Tức, Giồng Ké, cắt đứt giao thông, chặn bọn chi viện nếu có. Ai nấy động viên ra sức tấn công địch : “Ngày mai độc lập rồi!”, “Ngày mai độc lập rồi, anh em ơi!”. Đúng giờ khởi nghĩa, theo kế hoạch, mũi chị Năm Hồng tràn vào dinh quận, tước vũ khí bọn làng lính quận, đốt sổ sách, truy nã địch. Tên quận Hải trốn mất. Dinh quận bị đốt, lửa cháy sáng rực. Mũi Giồng Ké, tôi chạy huy động vài ba chục lực lượng đốn cây ven lộ ngã, chặn đường, rượt bọn tề xã Trung Ngãi lấy một số súng. Khi tràn xuống cầu Mây Tức, phía bên kia Trà Vinh, địch án ngữ phòng thủ đông quá, ta thối lui, lấy dầu lửa, dầu chai tẩm bố tời đốt cầu Giồng Ké. Lực lượng đang rào rấp đường thì anh Đỗ Văn Viên, Phan Ngọc Yến từ thị trấn Vũng Liêm đến phối hợp với lực lượng xã. Trời mới hừng đông, bọn địch ở Trà Vinh lên chi viện, qua cầu Mây Tức êm re. Chúng chủ quan đến cầu Giồng Ké, tôi cùng anh Viên, anh Yến phối hợp lực lượng chặn đánh bọn viện. Tên Tỉnh trưởng Trà Vinh Jean Dufour bị trọng thương ở bắp vế, tên Tỉnh phó cò Paul bị thương ở trán. Hốt hoảng, chúng rút lui. Lực lượng khởi nghĩa mừng vô hạn, song bên cạnh đó cũng rất thương tiếc đồng chí Đỗ Văn Viên hy sinh. Cầu Giồng Ké bị ta tiếp tục đốt cháy trước khi rút lui. Vì từ các nơi không nổ ra đồng loạt, có chỗ được lịnh trễ nên địch chi viện đánh rát quá. Chúng bắt người, đốt hàng loạt nhà cửa của dân. Địch bắt dân căng tay ngoài đồng từng đợt, truy nã kiểu giậm cù bắt chuột. Một cuộc khủng bố trắng diễn ra ác liệt.

Ở Vũng Liêm, chúng bắt hàng trăm người, giam cầm, đày Côn Đảo. Một số đồng chí lánh đi Cà Mau và một số tỉnh khác. Tôi theo dõi tin tức, không bị lộ, nên khoảng giữa tháng sau, tôi bám trụ lại thì bị chúng bắt nhốt khám Vĩnh Long. Tôi đấu lý, không có bằng chứng nên ba tháng sau, chúng thả. Sau đó, tôi tham gia nhóm thợ hồ, đi làm mướn cất nhà ở Trà Vinh. Bất ngờ, địch cho công an từ Cần Thơ qua bắt tôi giải về Cần Thơ. Sau nhiều lần chất vấn, tra tấn không có bằng cớ nên buộc phải thả lần thứ hai.

Tôi rời xã Trung Ngãi, về xã Trung Thành quê vợ làm thợ mộc, mua sắt làm đinh bán, tạo cớ làm ăn, cốt để quan hệ móc nối lại cơ sở cũ. Lúc đầu, giặc theo dõi kiểm soát gắt gao, nhưng sau đó bớt dần. Tôi liên hệ với chỉ Năm Kỉnh (vợ của đồng chí Hai Đen) rồi anh Sáu Thạnh, nắm được tình hình, chủ trương của Đảng. Tôi vẫn bám thế hợp pháp làm ăn, tìm cách móc nối, xây dựng cơ sở, tạo dựng lại phong trào.

Từ ngày 9/3/1945, Nhựt hất cẳng Pháp, chiếm Đông Dương. Tình hình ở tỉnh, lính tráng xuống thế, lớp rã ngũ buông súng trốn về làm ăn. Số còn cầm súng thì hoang mang. Dịp này, tôi tuyên truyền công tác binh vận, số lính lưng chừng thích theo dõi thời sự.

Tin cướp chính quyền thắng lợi dồn dập từ các nơi dội về. Hòa trong khí thế đó, tôi tham gia đoàn khởi nghĩa cướp chính quyền Vũng Liêm ngày 25/8/1945. Tôi được phân công về lãnh đạo xã Trung Ngãi, gấp rút thiết lập chính quyền xã. Tôi làm Bí thư. Những người có tinh thần yêu nước, dù trong Hội tề, tôi cử ra đảm nhiệm công việc, góp phần ổn định tình hình, giải quyết đời sống cho dân.

Cuối tháng 10, Pháp tái chiếm Vĩnh Long. Xã Trung Ngãi cũng như toàn tỉnh, cả nước tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ. Tôi được rút về huyện, làm Huyện ủy viên, Hội trưởng Nông dân cứu quốc. Phát động toàn huyện có 9 xã, nông dân vào tổ chức Cứu quốc, thi đua chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm, hưởng ứng Lời kêu gọi của Bác Hồ. Nông dân phấn đấu sản xuất nuôi quân, vừa tham gia đánh giặc giữ làng.

Những năm 1952 – 1954, địch tổ chức do thám, gián điệp kết hợp mua chuộc, kêu gọi đầu thú được khen thưởng. Đặc biệt là chúng cấy gián điệp vào cơ sở ta, đánh phá ác liệt các xã An Phước, Quới An, Tân An Luông, Tân Long Hội. Nhiều cơ sở bị tổn thất. Trước tình hình đó, tôi lần lượt được phân công về làm Bí thư xã An Phước rồi xã Hiệp Long (Trung Hiệp và Tân An Luông), xã An Long (Tân Long Hội) để gầy dựng lại cơ sở, phát động phong trào. Tôi bám trong dân, đào hầm bí mật, dựa thế hai bên bờ sông Mang Thít để tránh địch. Ban đêm đi tuyên truyền, giác ngộ quần chúng, đồng thời xây dựng quần chúng làm tai mắt để diệt ác trừ gian. Có tiêu diệt ác ôn, đánh bọn đầu sỏ, hạ uy thế chúng, kết hợp lực lượng quần chúng đưa phong trào lên. Các xã khó khăn, trong mấy tháng tôi được phân công về công tác, làm chuyển biến, phát triển thêm đảng viên, củng cố Chi bộ, tạo được phong trào quần chúng ủng hộ người – của cho kháng chiến. Cứ xã này chuyển lên có phong trào, rút kinh nghiệm, tôi lại được phân công sang xã khác chỉ đạo.

Hiệp định Giơ-ne-vơ (1954) tạm thời chia đôi đất nước, tôi được phân công ở lại miền Nam, chuẩn bị cuộc đấu tranh trong tình hình mới.

Chín năm kháng chiến chống Pháp, trường kỳ gian khổ. Cuộc chống Mỹ có ai ngờ biết bao lâu, trong khi các điểm tiễn đưa đi tập kết đưa hai ngón tay làm ký hiệu hai năm với bao niềm tin tưởng hẹn ngày thống nhất.         

Nguyễn Long Hồ – Theo sách Những người con trung hiếu

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *