![]() |
Nhà văn Nguyên Hồng quê gốc ở Nam Định. Tuổi thiếu thời, ông chịu bao cay đắng tủi nhục. Cuộc sống lam lũ đã khiến ông gắn bó với những con người chân đất, những con người dưới đáy xã hội. Điều đó giải thích vì sao trong suốt cuộc đời cầm bút của mình, ông hầu như chỉ viết về những người lao động…
Về phía họ hàng, nhà văn Nguyên Hồng là chú tôi. Gia đình tôi gốc gác ở Xuân Trường – Nam Định, nhưng vì đói kém, giặc giã và vì bố tôi đi bộ đội, công tác nên phải chuyển hết chỗ nọ đến chỗ kia. Năm 1949, mẹ tôi đã đưa các con về ở mấy tháng tại ấp Cầu Đen, xã Quang Tiến, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang (nơi tản cư của gia đình nhà văn Nguyên Hồng năm 1947) trước khi lên Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. Hòa bình lập lại (1954) gia đình tôi về thị xã Bắc Ninh, còn gia đình chú Nguyên Hồng ra Hà Nội. Thi thoảng, ông có qua lại nhà tôi. Năm 1958, nhà văn Nguyên Hồng đã đưa cả gia đình trở lại ấp (thôn) Cầu Đen. Đến năm 1970, gia đình tôi sau nhiều nơi sơ tán đã ở hẳn xã Dĩnh Kế, thị xã Bắc Giang (nay là thành phố Bắc Giang). Nhiều lần từ Hà Nội về thôn Cầu Đen, nhà văn Nguyên Hồng hay đến gia đình tôi để nghỉ. Chiếc xe đạp thiếu nhi Liên Xô cọc cạch (chúng tôi vẫn gọi là xe cún) quả là làm cho ông vất vả khi đạp suốt chặng đường dài. Bố tôi cằn nhằn:
– Chú là nhà văn thì cũng phải có cái xe đàng hoàng.
Nguyên Hồng với nét mặt khổ sở, nhăn nhó đáp lại bằng cái giọng lắp bắp, bực bội:
– Khốn nạn, có xe đi là phúc rồi, xe nào chẳng được. Mà sao anh lại có ý nghĩ kỳ quái thế. Cứ nhà văn là phải có xe đàng hoàng?
Bố tôi và Nguyên Hồng không hợp nhau. Bố tôi cứ ra khỏi nhà là ăn vận chải chuốt, thường ngày rất ngăn nắp, cẩn thận. Nguyên Hồng trái lại ăn mặc tuềnh toàng, đôi lúc lôi thôi nhếch nhác, chuộng sự giản dị tự nhiên. Chỉ vì tính nết, tác phong ấy mà hai người thường bất hòa. Thời ấy (trước 1982), gia đình tôi nghèo lắm. Mẹ tôi luôn than thở về nhà cửa chật chội, dột nát. Nhưng khác hẳn khi nói với bố tôi, Nguyên Hồng dịu dàng an ủi:
– Chị ạ, cũng không sao. Thế này là quý rồi.
Ông quý mẹ tôi vì trước đây mẹ tôi sống lam lũ, nhọc nhằn và sau nữa mẹ tôi thông cảm với tính khí của ông.
Tôi chẳng bao giờ dám khoe sự viết lách của mình với ông. Tôi vốn là người mặc cảm và nhút nhát. Trước một nhà văn lừng lững như ông, tôi còn dám kể gì. Năm 1971, tôi đi dự hội nghị các cây bút trẻ toàn quốc họp tại Hà Nội và gặp ông tại hành lang ở Hội Nhà văn. Ông nheo nheo mắt cười, nửa như ngạc nhiên, nửa như đùa cợt:
– Thế cháu cũng họp ở đây à?
– V…âng – Tôi bối rối, ngượng ngùng đáp.
– Khổ, viết lách làm gì. Viết văn khổ lắm cháu ạ.
Ông nói với nét mặt nhăn nhó, khổ sở, với giọng điệu thật nao lòng, cứ như tôi không hay biết đang định di giày qua cánh đồng ngập bùn! Bấy giờ tôi ngầm phản đối ông chú. Viết văn có gì là khó. Hầu như những bài tôi viết dù là thơ hay truyện gửi tới báo chí đều được in. Ngay một truyện dài được in ở NXB Kim Đồng "Câu chuyện về một đội kịch" (sau này được in lần thứ ba), tôi cũng chỉ viết nửa tháng. Hỡi ôi, bây giờ tôi mới thấy chú tôi nói là thành tâm lắm, chính xác lắm, là thương quý tôi lắm. Đã có lúc tôi "điếc không sợ súng", tưởng dăm ba cái truyện, một thành công nho nhỏ đã là vì sao sáng! Cái nghề văn chương thật nghiệt ngã. Nghề khác không tài thì vẫn làm được chứ văn chương không có cái ấy chỉ đày ải thân mình, làm khổ vợ con, suốt đời sống hão huyền.
![]() |
Nhà văn Nguyên Hồng (thứ hai từ phải qua) cùng gia đình tiếp bạn văn quốc tế tại nhà riêng ở ấp Cầu Đen (Bắc Giang) năm 1971. |
Một lần tôi hỏi ông về chuyện này chuyện nọ đang diễn ra ở Hà Nội, ông nhăn mặt gắt:
– Khốn nạn, hỏi những chuyện ấy làm gì! Có sức thì cứ ngồi mà viết, chú tâm mà viết. Cháu nhớ nhé, nghề này chỉ có viết, mà phải viết cho tử tế, đàng hoàng; viết từ ruột gan mình, từ máu óc mình.
Bao lời ông nói, giờ ngẫm lại thật thấm thía.
Mỗi lần ông đến nhà tôi thì không phải chỉ lũ con tôi mà cả đám trẻ choai choai ở trong xóm cũng xúm xít. Chúng tò mò và lạ lẫm thấy một ông già ăn mặc tuềnh toàng hoặc đứng ở sân, hoặc đi đi lại lại ở ngõ mà chậm rãi đọc thơ – thường là thơ cổ. Ông đọc trong nét mặt căng thẳng, đăm chiêu, lúc cúi đầu gật gù, lúc dướn mắt lên cao, với giọng vất vả, nhọc nhằn nhưng cũng đầy biểu cảm. Ông là người dễ xúc động. Tôi đã chứng kiến nhiều lần ông thút thít khóc khi cùng mẹ tôi nhắc lại những chuyện cay đắng lam lũ từ thời đói kém, loạn lạc trước 1945 cũng như ông đọc thơ mình trước thầy giáo, học sinh khi đến nói chuyện văn chương. Ở ông, người sao văn vậy. Sự sống ông ở ngay từng câu chữ. Văn chương ông có một giọng điệu riêng – thô tháp và rắn rỏi, cuồn cuộn và sôi nổi, thiết tha và đằm thắm, giận dữ và giễu cợt – mà không trộn lẫn với bất cứ nhà văn nào.
Nhà văn Nguyên Hồng quê gốc ở Nam Định. Tuổi thiếu thời, ông chịu bao cay đắng tủi nhục. Cuộc sống lam lũ đã khiến ông gắn bó với những con người chân đất, những con người dưới đáy xã hội. Điều đó giải thích vì sao trong suốt cuộc đời cầm bút của mình, ông hầu như chỉ viết về những người lao động cũng như năm 1958 ông đã lặng lẽ rời cả gia đình từ thủ đô để trở về thôn Cầu Đen, Quang Tiến chứ không phải ở thị xã, lấy đó làm quê thứ hai của mình. Nhà văn đã nhiều lần nói rằng, Quang Tiến cũng như cả tỉnh Bắc Giang là quê của mình. Chính ở vùng đất này, ông ghi chép, đi điền dã, sống với bà con để viết cuốn tiểu thuyết đồ sộ "Núi rừng Yên Thế". Dù ở Quang Tiến hay đi bất kỳ nơi đâu, ông đều được cán bộ, nhân dân rất quý trọng. Được như thế là vì ngoài tài năng văn chương, ông còn là người tâm huyết, tình cảm và có tác phong, lối sống hết sức giản dị, tự nhiên.
Năm 1981, tôi cùng với mấy anh ở Hội Văn nghệ tỉnh lên huyện Yên Thế theo lời mời của Huyện ủy đi thực tế sáng tác nhằm xuất bản một tập sách riêng cho huyện. Chúng tôi đi ôtô lên. Một lúc sau, nhà văn Nguyên Hồng lững thững đạp xe tới. Từ Quang Tiến đến Cầu Gồ (huyện lỵ Yên Thế) cũng phải 14 – 15 cây số. Anh Xương – Bí thư Huyện ủy – kêu lên:
– Chúng em đã đề nghị bác cứ ở nhà để ôtô đến đón.
Ông cười xòa:
– Tôi thích thế này. Khốn nạn, đây với kia xe pháo làm gì.
Cán bộ huyện đưa chúng tôi tới thăm hồ Cầu Rễ. Đến chân đập, chiếc xe dừng lại. Tất cả chúng tôi vội rảo bước lên. Đây rồi, một dải nước xanh ngắt rười rượi. Cái dải nước kỳ diệu ấy phập phồng trong gió cứ luồn qua chân núi mà đi. Tôi chưa biết đến đâu thì nó sẽ bị chặn lại. Giữa hồ là một quả đồi nhỏ. Một căn nhà rạ, xung quanh là chuối và cây rừng. Nhà văn Nguyên Hồng nói như reo:
– Giời ạ, tuyệt quá. Một nhà nghỉ mát lý tưởng, một khu điều dưỡng lý tưởng – ông đăm đăm nhìn ra ngoài, giọng trầm hẳn – Khốn nạn, thế này thì còn phải lên Tam Đảo làm gì, xuống nhà nghỉ tỉnh làm gì. Của quý ở nhà mà lại không biết – Ông chỉ một quả núi giữa hồ gần nhất – Giời đất, thế chỗ núi kia mà nuôi dê, nuôi hươu hay nuôi gia súc gì đó thì còn khêu gợi, quyến rũ biết bao, còn kinh tế biết bao – Ông hả hê nhìn ra xung quanh – Giời ạ, Yên Thế ta đất rộng rãi thế này, khí hậu tốt lành thế này thì sẽ giàu, sẽ sướng lắm.
Ông đã đột ngột ra đi khi đang dở dang cuốn tiểu thuyết nhiều tập "Núi rừng Yên Thế", khi bao dự định lớn lao ấp ủ. Con người của đất, của những người cần lao, của bãi Sáu Kho, của Đồi Cháy, của núi rừng đã trở về với đất. Nhớ về ông, tôi lại nhớ câu nói nổi tiếng của nhà văn cộng sản Pháp Pierre Abraham, Tổng biên tập Tạp chí Châu Âu khi viết về ông: "Nguyên Hồng từ bờ bãi sông Hồng gió cuốn, nhà văn lớn này là người của đất, thực là người của đất."
Theo Đỗ Nhật Minh(Cháu họ nhà văn Nguyên Hồng) )
(CAND.COM)