Nhà thơ Lê Anh Xuân

 Trong gần bốn năm ở chiến trường, Ca Lê Hiến – Lê Anh Xuân đã thực sự sống, chiến đấu và viết văn với tư cách một chiến sĩ thực thụ, một nghệ sĩ chân chính. Tình yêu nhân dân và lý tưởng cách mạng, sự gắn bó với quê hương bằng những tình cảm lớn, chân thành và mãnh liệt vốn đã có gốc rễ sâu xa từ thuở thiếu thời, nay trỗi dậy ngày càng mạnh mẽ và sâu sắc.

Trong số gần 1.000 nhà văn Việt Nam hiện nay (tiêu chí nhà văn là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam) có đến 1/10 vốn là cựu sinh viên hoặc giáo viên Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội trước đây, nay là Đại học Quốc gia Hà Nội. Đặc biệt nhà văn Chu Cẩm Phong (1941-1971), tốt nghiệp Khoa Ngữ văn năm 1964, trở thành phóng viên Thông tấn xã Việt Nam tại mặt trận Quảng – Đà những năm chống Mỹ, cứu nước; đã hy sinh anh dũng trên chiến trường năm 1971.

Tháng 4/2010, nhà văn – liệt sĩ Chu Cẩm Phong đã được Chủ tịch nước truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Biết như thế để chúng ta tự hào về truyền thống Đại học Tổng hợp Hà Nội, một thương hiệu đại học Việt Nam.

Lê Anh Xuân là một trong số các nhà văn Việt Nam thời hiện đại, thời cách mạng trưởng thành từ mái Trường Đại học Tổng hợp thân yêu.

Nhà thơ Lê Anh Xuân (5-6-1940 – 21-5-1968) tên khai sinh là Ca Lê Hiến, sinh tại thị xã Bến Tre, trong một gia đình trí thức yêu nước, là con trai thứ của một nhà giáo dục, nhà nghiên cứu văn học Ca Văn Thỉnh. Năm 12 tuổi, vừa học vừa tập việc trong chiến khu, ở nhà in Trịnh Đình Trọng (thuộc Sở Giáo dục Nam Bộ).

Năm 1954, Ca Lê Hiến tập kết ra miền Bắc cùng gia đình, học hết bậc phổ thông ở Trường học sinh miền Nam (Hải Phòng) và Trường Nguyễn Trãi (Hà Nội). Ở bậc đại học, Ca Lê Hiến học tập tại Khoa Lịch sử, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (khóa 3, năm 1959- 1963). Tốt nghiệp đại học, Ca Lê Hiến được nhà trường giữ lại làm giảng viên, sau đó trong kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực lâu dài cho ngành Giáo dục đại học, anh được cử đi nghiên cứu sinh ở nước ngoài.

Cuối năm 1964, khi ngọn lửa chiến tranh đã lan rộng khắp cả nước, Ca Lê Hiến, giống như nhiều thanh niên thời đó đã "xếp bút nghiên theo việc binh đao". Ca Lê Hiến được thỏa lòng ước mong, trở lại quê hương, trở về chiến trường miền Nam, công tác ở Tiểu ban Giáo dục, sau chuyển công tác về Hội Văn nghệ Giải phóng.

Trong gần bốn năm ở chiến trường, ta vẫn gọi là ở tiền tuyến, Ca Lê Hiến – Lê Anh Xuân đã thực sự sống, chiến đấu và viết văn với tư cách một chiến sĩ thực thụ, một nghệ sĩ chân chính. Tình yêu nhân dân và lý tưởng cách mạng, sự gắn bó với quê hương bằng những tình cảm lớn, chân thành và mãnh liệt vốn đã có gốc rễ sâu xa từ thuở thiếu thời, nay trỗi dậy ngày càng mạnh mẽ và sâu sắc.

Cảm hứng chủ đạo trong thơ Lê Anh Xuân là tình yêu quê hương đất nước, yêu nhân dân bao đời cần lao mà anh dũng. Hơn ai hết nhà thơ hiểu tận ngọn nguồn về nhân dân của mình như cách diễn đạt tài tình của nhà thơ Hungari Sanđo Pêtôphi "Cày một tay/ gươm một tay/ Đời nhân dân muôn nỗi đắng cay/ Máu cứ đổ mồ hôi cứ đổ". Một nghệ sĩ lớn, bao giờ cũng trước hết và sau hết thuộc về nhân dân của mình.

Sự nghiệp văn học của Ca Lê Hiến – Lê Anh Xuân không có cái đồ sộ của khối lượng tác phẩm, không có cái "bắt mắt" như bây giờ trong cơ chế thị trường và tính chất thương mại nên văn học cũng được coi là một thứ hàng hóa. Tác phẩm của thi nhân tinh khiết, trinh nguyên xuyên suốt thời gian. Đó là nghệ thuật vô tư, không vụ lợi; đó là thơ ca cất lên từ trái tim thổn thức, đập cùng nhịp với nhịp đập của trái tim nhân quần (như cách diễn tả của thi sĩ Xuân Diệu "Tôi cùng xương cùng thịt với nhân dân/ Cùng đổ mồ hôi cùng sôi nước mắt"). Sáng tác của Lê Anh Xuân vỏn vẹn chỉ có: Tiếng gà gáy (thơ, 1965), Có đâu như ở miền Nam (Thơ, in chung, 1968), Nguyễn Văn Trỗi (Trường ca, 1968), Hoa dừa (Thơ, 1971), Thơ Lê Anh Xuân (Tuyển thơ, 1981), Giữ đất (Văn xuôi, 1968).

Những giải thưởng văn học cũng không phải là nhiều so với một tài năng thơ ca đặc biệt như Lê Anh Xuân: Giải nhì cuộc thi thơ Tạp chí Văn nghệ năm 1961 với bút danh Ca Lê Hiến (bài thơ Nhớ cơn mưa quê hương); Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật đợt I, năm 2001.

***

Thơ Lê Anh Xuân, nếu có thể ví von, như loài hoa dừa vốn đặc trưng cho xứ sở miền Nam quê hương thân yêu của nhà thơ. Nếu sự ví von này là có thể chấp nhận được, nghĩa là đúng, thì kính mời quý vị đọc lại tập thơ Hoa dừa của Lê Anh Xuân, tập thơ theo chúng tôi nghĩ, là kết tinh đời thơ tuy ngắn ngủi nhưng rực cháy, phát sáng và phát lộ tài năng văn chương của Ca Lê Hiến – Lê Anh Xuân. Tài năng và nhân cách, hay nói cách khác cái tài và cái tâm của người nghệ sĩ trong con người Lê Anh Xuân là không tách rời, như hai mặt của một tờ giấy.

Tôi muốn nói đến "Dáng đứng Việt Nam" – tên một bài thơ và cũng là một biểu tượng lớn và đẹp trong thơ Lê Anh Xuân. Dáng đứng Việt Nam, có thể nói trong thơ Lê Anh Xuân bắt đầu từ dáng đứng của người mẹ trong bài thơ Bông trang đỏ. Trong bài thơ giàu chất tự sự này, hình ảnh bà mẹ miền Nam với nỗi đau khôn nguôi (trong vòng 10 năm mẹ mất hai người thân yêu nhất – chồng và con trai bị giặc thù sát hại).

Trên chặng đường chiến đấu bằng ngòi bút, Lê Anh Xuân dường như dành rất nhiều tình cảm cho người lính giải phóng quân qua những bài thơ: Chào các anh những người chiến thắng, Ánh đuốc, Anh đứng giữa Tháp Mười, và ấn tượng nhất là bài thơ “Dáng đứng Việt Nam” – bài thơ cuối cùng Lê Anh Xuân viết trước lúc hi sinh. Tại sao nhà thơ lại chú tâm đến dáng đứng của con người Việt Nam trong thời đại cách mạng và chiến tranh? Trong thời đại cách mạng và chiến tranh, trái lại vấn đề dáng đứng lại mới trở nên quan trọng và có ý nghĩa.

Trong bài thơ Chào các anh những người chiến thắng, Lê Anh Xuân đã phác họa dáng đứng của người chiến sĩ giải phóng quân "Nay các anh đứng lên như Phù Đổng/ Đạp trên đầu thù bay tới tương lai". Cả bài thơ và những câu thơ như thế, dù sao vẫn là một sự khái quát nghệ thuật cao độ về nhân vật người anh hùng thời đại.

Về bút pháp gần gũi với cách viết của nhà thơ Tố Hữu lúc bấy giờ về người chiến sĩ giải phóng quân Việt Nam anh hùng “Hoan hô anh giải phóng quân/ Kính chào Anh con người đẹp nhất!” (Bài ca xuân 68), đó là bút pháp tượng trưng, gần gũi với thần thoại và truyền thuyết. Tôi nghĩ, các thế hệ trẻ sau này khi đọc lại bài thơ Dáng đứng Việt Nam (viết tháng 3/1968) của nhà thơ – liệt sĩ Lê Anh Xuân sẽ hiểu thêm một khía cạnh của thi phẩm này: bài thơ được viết theo tinh thần của hư cấu nghệ thuật hoàn toàn hay được gợi dẫn từ sự thật đời sống và sự thật lịch sử?

Như chúng ta biết, trong cuộc Tổng tấn công và nổi dậy mùa xuân năm 1968, ở mặt trận Sài Gòn – Gia Định, cụ thể hơn nữa là ở những trận tấn công vào sân bay Tân Sơn Nhất, về sau vẫn còn lưu truyền câu chuyện về một chiến sĩ giải phóng quân hi sinh trong tư thế tiến công, chính tư thế này đã khiến quân thù khiếp sợ, chùn bước; và cũng chính tư thế hi sinh trong lúc đang đứng bắn của người chiến sĩ giải phóng quân đã tạo thời cơ cho quân ta chủ động tiến công giành lại thế trận.

Nếu là một họa sĩ, tôi nghĩ, Lê Anh Xuân sẽ chọn gam màu vàng, màu đỏ và màu xanh để hoàn thành tác phẩm hội họa của mình; nhưng riêng màu xanh sẽ gây được ấn tượng nhiều nhất đối với người xem vì đó là màu của bộ quân phục giải phóng. Lê Anh Xuân là một nhà thơ có phẩm tính một họa sĩ nên đã kiến tạo cho thơ của mình có cái đặc sắc của "thi trung hữu họa".

Hãy xem nhà thơ "vẽ" chân dung người chiến sĩ giải phóng "Anh ngã xuống đường băng Tân-Sơn-Nhứt/ Nhưng anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng/ Và anh chết trong khi đương đứng bắn/ Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng".

Như đã nói ở trên, chính cái tư thế hy sinh của người chiến sĩ đã khiến quân thù khiếp sợ, đến mức dù anh đã hi sinh nhưng quân thù vẫn tưởng anh còn sống đó, đang nhìn thẳng kẻ thù và sẵn sàng nhả đạn "Chợt thấy Anh giặc hốt hoảng xin hàng/ Có thằng sụp xuống chân Anh tránh đạn/ Bởi Anh chết rồi, nhưng lòng dũng cảm/ Vẫn đứng đàng hoàng, nổ súng tiến công". Đó là người anh hùng vô danh. Lịch sử xưa nay vẫn chủ yếu được viết nên bởi những anh hùng vô danh.

Hẳn chúng ta đều biết, ở thành phố Điện Biên Phủ bây giờ, trong những nghĩa trang liệt sĩ có đến 9/10 ngôi mộ là của những chiến sĩ vô danh. Và ở khắp các nghĩa trang liệt sĩ trên cả nước, tình hình cũng tương tự. Người chiến sĩ giải phóng trong bài thơ của Lê Anh Xuân cũng là người vô danh của lịch sử "Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ/ Anh chẳng để lại gì cho riêng Anh trước lúc lên đường/ Chỉ để lại cái-dáng-đứng Việt-Nam tạc vào thế kỉ/ Anh là chiến sĩ Giải phóng quân".

Có những khoảnh khắc đặc biệt, tại đó những cá nhân "khổng lồ" về tầm vóc trí tuệ hoặc tầm vóc đạo đức, tầm vóc tài năng sẽ gặp gỡ với lịch sử. Điều này nhà thơ Tố Hữu đã viết trong bài thơ Hãy nhớ lấy lời tôi (ca ngợi Anh hùng – liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi) "Có những phút làm nên lịch sử/ Có cái chết hóa thành bất tử/…".

Với Lê Anh Xuân, người chiến sĩ giải phóng đồng nghĩa với lịch sử, với nhân dân, với chân lí thời đại "không có gì quý hơn độc lập tự do". Những câu thơ kết bài thơ Dáng đứng Việt Nam là một sự đúc kết, cao hơn là tổng kết: "Tên Anh đã thành tên đất nước/ Ơi anh giải phóng quân!/ Từ dáng đứng của Anh giữa đường băng Tân-Sơn-Nhứt/ Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân". Đây là bút pháp của huyền thoại khiến cho hình tượng thơ trở nên vượt quá kích cỡ bình thường, trở thành cái trác tuyệt vốn được xem như một phạm trù mỹ học cơ bản của nghệ thuật thời đại có những biến thiên lịch sử trọng đại.

***

Để kết thúc bài viết của mình, tôi nghĩ muốn dành trọn tình cảm của một người thuộc lớp đàn em của nhà thơ nghĩ về người tiền nhiệm của mình trong nghề cầm bút – đó là tinh thần dấn thân của một con người đáng kính trọng vào hàng bậc nhất. Như chúng ta biết, Ca Lê Hiến – Lê Anh Xuân bước chân vào cổng Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội danh tiếng từ năm 1959. Nên nhớ lớp sinh viên lúc đó được lựa chọn hết sức kĩ càng, nếu ai đã vào được Đại học Tổng hợp Hà Nội, chắc chắn đó là người tài. Không có gì phải đắn đo khi nói Ca Lê Hiến là một sinh viên xuất sắc vì sau khi tốt nghiệp anh được giữ lại trường làm giảng viên.

Trong thời gian làm trợ giảng, Ca Lê Hiến đã có sự chuẩn bị cho tương lai nghề nghiệp và cuộc đời của mình. Nhưng cuộc đời của mỗi người, thường khi có những bước ngoặt bất ngờ. Chúng ta biết, vào thời điểm cuối năm 1964, cục diện chiến tranh đã có nhiều thay đổi: đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh bằng không quân ra miền Bắc kể từ ngày 5/8/1964; trên phạm vi cả nước, cuộc chiến ngày càng ác liệt, gian khổ.

Theo một hướng thuận, Ca Lê Hiến sẽ tiếp tục con đường học vấn của mình và tương lai anh sẽ trở thành một nhà khoa học có đóng góp xứng đáng (vì thân phụ của anh, nhà giáo dục, nhà khoa học Ca Văn Thỉnh là người có nhiều đóng góp cho lĩnh vực nghiên cứu văn học, có nhiều công trình nghiên cứu có giá trị; vì anh được chọn đi nước ngoài đào tạo).

Nếu đi theo hướng này, Ca Lê Hiến rất có thể bây giờ là một tên tuổi trong lĩnh vực khoa học lịch sử. Nhưng dường như mỗi người đều có số phận, mà số phận lại do tính cách quyết định. Tôi hình dung vào thời kì đó, Ca Lê Hiến – Lê Anh Xuân đã có nhiều đêm ít ngủ và trăn trở, suy nghĩ lao lung: chọn đặt chân lên con đường khoa học gập ghềnh, không ít chông gai và thử thách hoặc chọn con đường nghệ thuật vốn không chấp nhận những ai tính toán thiệt hơn, vì nghệ thuật từ xưa vốn vô tư và không vụ lợi.

Nhưng có thể hình dung như sau: Ca Lê Hiến, từ trong máu là con người thích dấn thân và sẵn sàng dấn thân. Nếu Tố Hữu ngay từ năm 1940, trong bài thơ Trăng trối đã viết "Đời cách mạng từ khi tôi đã hiểu/ Dấn thân vô là phải chịu tù đày/ Là gươm kề tận cổ, súng kề tai/ Là thân sống chỉ coi còn một nửa".

Cũng như thế, vào thời điểm năm 1964, Ca Lê Hiến – Lê Anh Xuân chắc chắn cũng tự nhủ rằng làm cách mạng thời mình bằng nghệ thuật, âu cũng là một cuộc dấn thân, nhập cuộc không kém phần gian khổ, hi sinh. Anh khoác ba lô giã từ gia đình, người thân, bạn bè, nhà trường, thầy cô, đồng nghiệp lên đường vào chiến trường. Nhưng cuộc ra đi, lên đường này thực ra là một cuộc trở về ngoạn mục nhất trong cuộc đời ngắn ngủi nhưng rực cháy, rực sáng của Ca Lê Hiến – Lê Anh Xuân.

Trở về quê hương, chiến đấu giải phóng quê hương – còn gì hạnh phúc hơn điều đó, vả lại có phải ai bất kì cũng có được hạnh phúc trên đời khi được sống theo sở nguyện của riêng mình, được lúc nào cũng là chính mình?! Có lẽ Ca Lê Hiến – Lê Anh Xuân đã sống rực cháy, sống hạnh phúc những năm cuối đời khi được tự do dấn thân và xả thân vì lí tưởng sống, lí tưởng nghề nghiệp.

Cuộc đời và sự nghiệp văn chương của Ca Lê Hiến – Lê Anh Xuân, nếu có thể hình dung, là một cuộc tự đốt cháy trái tim đến thành trí tuệ và đốt cháy trí tuệ đến thành trái tim.

Trong nền văn học hiện đại Việt Nam thời kì cách mạng và chiến tranh, chúng ta đã chứng kiến những tấm gương dấn thân lớn lao như các nhà văn – chiến sĩ đã ngã xuống trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của dân tộc: Trần Đăng (1921-1949), Trần Mai Ninh (1917-1947), Thâm Tâm (1917-1950), Hồng Nguyên (1924-1954), Nam Cao (1917-1951), Dương Thị Xuân Quý (1941-1969), Chu Cẩm Phong (1941-1971), Ngô Kha (1937-1973), Nguyễn Trọng Định (1939-1968), Vũ Đình Văn (1951-1972), Nguyễn Mỹ (1935-1971)… Đó là những nhân cách nghệ sĩ lớn đã sống, chiến đấu và sáng tác văn chương với tinh thần dấn thân cao cả 

Theo Nhà văn Bùi Việt Thắng (CAND.COM)
 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *