Trong khủng hoảng, hai nước Việt Nam – Trung Quốc đều phải điều chỉnh chiến lược phát triển. Tuy nhiên, thách thức mà khủng hoảng mang lại cho mỗi nước cũng có sự khác biệt – GS Brantly Womack.

Tương đồng

Cả Việt Nam và Trung Quốc đều đặt ưu tiên cao vào việc tối đa hóa tăng trưởng kinh tế, và phần quan trọng của chiến lược này là khuyến khích sản xuất các mặt hàng phục vụ thị trường các nước phát triển.

Bảng 1

Bảng 1 đã chỉ rõ, cả hai nước đều dựa vào thị trường Mỹ và châu Âu, chiếm khoảng 1/3 xuất khẩu của hai nước và thương mại giữa hai nước với các thị trường này giữ nhịp độ tăng trưởng của thương mại nói chung.

Hơn nữa, cả hai nước đều dựa vào lợi thế cân bằng thương mại với các nước phát triển để đối phó với thâm hụt thương mại với khu vực khác. Chỉ riêng nền kinh tế Mỹ và 5 nền kinh tế lớn nhất châu Âu đã chiếm tới 39% nền kinh tế thế giới. Vì thế, cũng không có gì ngạc nhiên khi 6 nước này trở thành phần quan trọng trong chiến lược xuất khẩu của các nước còn lại. Hơn nữa, đây cũng là khu vực chịu rủi ro, ở ngay tâm chấn của sự bất định toàn cầu hiện nay.

Mô hình thương mại tiền khủng hoảng khiến cho tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu sẽ rơi vào Việt Nam và Trung Quốc và đòi hỏi sự điều chỉnh như một ưu tiên.

Ở các lĩnh vực được xây dựng chỉ nhằm phục vụ cho các thị trường phát triển như Mỹ và châu Âu, sự thua thiệt là không tránh khỏi. Đầu tư nước ngoài sẽ giảm, và ở trong nước, hai nước sẽ phải đối mặt với tình trạng thất nghiệp.

Hơn nữa, các vấn đề này lại tập trung ở những cơ sở định hướng phục vụ xuất khẩu, lĩnh vực từng đóng vai trò chủ đạo trong phát triển kinh tế. Do đó, thách thức lớn nhất trước mắt với cả Việt Nam và Trung Quốc là giảm nhẹ sự thua thiệt đối với những đối tượng chịu ảnh hưởng lớn nhất từ khủng hoảng.

Thách thức sâu hơn và quan trọng hơn là chuyển chiến lược phát triển từ sản xuất các mặt hàng phục vụ cho các thị trường sẵn có sang việc tìm kiếm và phát triển các thị trường mới. Duy trì thị phần ở các thị trường đang chìm cũng rất quan trọng, nhưng điều quan trọng hơn là phải chiếm được thị phần ở các thị trường đang lên.

Thị trường phát triển nhanh nhất trong kỷ nguyên mới sẽ là các nước thu nhập trung bình, bao gồm cả chính Trung Quốc và cơ hội lớn nhất trong dài hạn chính là ở các nước nghèo nhất.

Cả Việt Nam và Trung Quốc có lợi thế đặc biệt bởi bản thân hai nước này là các nước đang phát triển và do đó, đã khá quen với nhu cầu của các nền kinh tế này.

Tuy nhiên, FDI có vẻ không đóng vai trò chủ đạo trong sản xuất của các thị trường các nước đang phát triển, do đó, các chính phủ sẽ phải tích cực khuyến khích tinh thần kinh doanh và sự phát triển ở địa phương.

Thách thức quan trọng nhất trong phát triển thị trường chính là trong bản thân kinh tế nội địa của Việt Nam và Trung Quốc. Thị trường mỗi nước chính là chỗ dựa quan trọng nhất trong thời điểm bất định hiện nay.

Mở rộng hạ tầng kinh tế quốc gia và phát triển tiêu dùng trong nước luôn là ưu tiên quan trọng, nhưng chúng lại có một tầm quan trọng mới trong thời điểm bất định. Hơn nữa, đối với cả hai nước Việt Nam và Trung Quốc, thị trường nội địa của Trung Quốc là cơ hội lớn ở châu Á.

Sự bất định toàn cầu đã làm giảm tốc độ tăng trưởng GDP của hai nước Việt Nam, Trung Quốc và thúc giục hai nước cố gắng duy trì mức tăng trưởng hiện tại bằng mọi giá. Cả hai nước đã đưa ra gói kích thích kinh tế lớn, chiếm 15% GDP Trung Quốc và 6,8% GDP Việt Nam nhằm chống lại các tác động tiêu cực của suy thoái.

Tuy nhiên, mục tiêu đạt tăng trưởng kinh tế tối đa là một chiến lược còn phải bàn cãi trong điều kiện kinh tế thuận lợi nay càng phải đặt câu hỏi nghi vấn trong khủng hoảng. Tăng trưởng bền vững trở nên quan trọng hơn. Sự tăng trưởng không bền vững sẽ tạo nên khủng hoảng trong hiện tại và tương lai. Một mô hình tăng trưởng chậm hơn nhưng chắc chắn hơn sẽ ngăn ngừa xu hướng bất định.

Như Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo từng nói, sự phát triển của khoa học phải giải quyết được sự bất bình đẳng xã hội và nâng cao sự hài hòa xã hội cũng như xử lý được các vấn đề của nền sản xuất công nghiệp như ô nhiễm.

Thách thức chung cuối cùng của hai nước cũng như các nước láng giềng là phát triển và tăng cường các thể chế khu vực, đặc biệt trong lĩnh vực phát triển, thương mại và tài chính. Sự yếu đi và biến động của đồng USD nhắc nhở Đông Á về tầm quan trọng của việc tạo dựng sự ổn định tài chính toàn cầu, và những vấn đề của các nhà cung cấp dịch vụ toàn cầu như AIG và Lehman Brothers đã cho thấy sự khôn ngoan của các thể chế dựa trên nền tảng khu vực hoặc địa phương.

Tuy nhiên, sức mạnh của ASEAN, thể chế khu vực thành công nhất ở Đông Á dựa trên sự mở cửa với phần còn lại của thế giới hơn là việc thiết lập một hệ thống đóng. Điều này nên được duy trì như là một nguyên tắc của phát triển các thể chế khu vực trong tương lai.

Khác biệt

Bất chấp sự giống nhau cơ bản giữa Việt Nam và Trung Quốc khi đối mặt với khủng hoảng, những thách thức mà hai nước gặp phải hoàn toàn khác nhau ở nhiều lĩnh vực quan trọng.

Việt Nam là một nền kinh tế nhỏ hơn, ít giàu có hơn so với Trung Quốc. Trung Quốc có 7 năm đổi mới và mở cửa trước Việt Nam, và nước này không phải chịu ảnh hưởng của chiến tranh và thái độ thù địch quốc tế. Mỹ bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc vào n
ăm 1979 trong khi mãi tới năm 1995, Việt Nam và Mỹ mới bình thường hóa quan hệ. Hơn nữa, Việt Nam gia nhập WTO năm 2007, chậm hơn Trung Quốc 6 năm.

Khi Việt Nam còn là một con thuyền nhỏ chạy tốc độ chậm trong nước, thách thức cấp bách hơn là đối phó và thích ứng với cuộc khủng hoảng hiện nay. Trước khi cuộc khủng hoảng bắt đầu, lạm phát là một vấn đề lớn, ở mức 28% vào tháng 8/2008. Các giải pháp xử lý lạm phát được đưa ra vào tháng 4/2008 đã giúp kiểm soát được tình hình nhưng sự sụp đổ của các thị trường xuất khẩu ở các nước phát triển (tháng 1/2009, xuất khẩu giảm 24% trong vòng 1 năm) đã dẫn tới việc Việt Nam phải thay đổi chính sách theo hướng ngược lại, thực hiện kích thích tài chính và kiểm soát rủi ro.

Trung Quốc cũng trải qua một chu trình tương tự với việc xử lý áp lực lạm phát, các chính sách kiềm chế lạm phát và kích thích kinh tế, nhưng mức lạm phát thấp hơn (5%) và nước này có thặng dư thương mại khổng lồ.

Từ năm 2003, Việt Nam đã thâm hụt thương mại với tất cả các nước ASEAN, trừ Campuchia và Philippines. Ngoài hai nước này cùng với Nam Phi, tất cả các nước Việt Nam có thặng dư thương mại là các nước phát triển.

Tháng 6/2009, IMF tính toán cho rằng, tăng trưởng GDP của Việt Nam trong năm 2009 sẽ đạt 3,5%, được đánh giá là có sự thích ứng tốt với khủng hoảng. Tuy nhiên, IMF quan ngại về sự mất ổn định tài khóa dưới tác động của gói kích thích kinh tế. Rõ ràng, vấn đề đầu tiên của Việt Nam là kiểm soát tốt nhất có thể các vấn đề do cuộc khủng hoảng hiện nay gây ra.

Sự cải thiện nhanh chóng của hệ thống đường bộ và đường sắt của Trung Quốc ở phía Nam tạo thuận lợi cho sự tiếp cận của Việt Nam. Dự án phát triển chung ở các cửa khẩu quan trọng Lạng Sơn, Móng Cái cũng như các dự án lớn hơn như dự án phát triển khu vực Vịnh Bắc Bộ mang lại thời cơ đặc biệt. Xuất khẩu từ Việt Nam sang Trung Quốc tăng. Thương mại đã tăng 11 lần từ năm 1999 tới 2007 nhưng xuất khẩu dầu, than và các nguyên liệu khác chiếm tỷ trọng lớn.

Trong nửa đầu năm 2009, tổng kim ngạch thương mại Việt Nam với Trung Quốc chiếm 16%, gần bằng mức tăng thương mại với ASEAN. Xuất khẩu sang Trung Quốc chiếm 7,5% tỷ trọng xuất khẩu, và bằng một nửa tỷ trọng xuất khẩu sang Mỹ (19,5%), trong khi đó, Trung Quốc chiếm tới 23% nhập khẩu của Việt Nam, gấp 3 lần mức nhập khẩu từ EU và hơn mức nhập khẩu từ ASEAN khoảng 1 tỷ USD.

Thách thức của Việt Nam trong đa dạng hóa xuất khẩu sang Trung Quốc là có thể tìm ra mặt hàng và khu vực tiêu thụ có thể cạnh tranh thành công với các nhà sản xuất trong nước của Trung Quốc. Tuy nhiên, nỗ lực marketing một cách tinh tế các sản phẩm sang Trung Quốc có thể có kết quả. Các nhà sản xuất Việt Nam có thể xây dựng thương hiệu và danh tiếng ở thị trường Trung Quốc và tìm kiếm mảng thị trường cho sản phẩm của mình.

Bên cạnh đó, thị trường của Việt Nam ở ASEAN và Đông Á vẫn còn không gian để mở rộng.

Vượt ra ngoài châu Á, thành công của Trung Quốc ở châu Mỹ Latinh, Trung Đông và châu Phi gợi ý về cơ hội cho Việt Nam khi Việt Nam có cùng chung lợi thế cạnh tranh trong sản xuất, dù không so được về quy mô và tiềm lực tài chính. Thương mại với Nam Phi, Australia và New Zealand của Việt Nam đang tăng lên.

Việt Nam không có đủ tài chính cho các chương trình đầu tư dài hạn ở các nước nghèo hơn, nhưng quan hệ thân thiết với Campuchia và Lào có thể phát triển hơn. Trong khi Trung Quốc xây dựng mối liên hệ theo chiều dọc với các quốc gia ĐNA, Việt Nam có thể tiếp tục hợp tác với các nước láng giềng để tăng cường kết nối theo chiều ngang. Các dự án này không hề xung đột với nhau và có thể mang lại lợi ích cho cả hai bên.

Trái với Việt Nam, tình hình tiền tệ của Trung Quốc là điều mà bất cứ quốc gia nào cũng thèm muốn trong thời điểm này : có rất nhiều USD và đồng tiền bị định giá thấp. Điều này đặt ra vấn đề khó khăn cho lãnh đạo Trung Quốc, bởi nó hoàn toàn khác về mức độ và tính nguy cấp của vấn đề. Hơn nữa, trong khi các ngành sản xuất phục vụ xuất khẩu nhắm vào các nước đang phát triển gặp khó, các ngành kinh tế khác của Trung Quốc có khả năng gặt hái lớn hơn các ngành kinh tế của Việt Nam. Thách thức chiến lược chủ đạo với Trung Quốc là xem lại định hướng tăng trưởng kinh tế tối đa, và từng bước chuyển ưu tiên sang phát triển bền vững.

Nếu Trung Quốc không xử lý thành công thách thức trong việc kiểm soát tác động xã hội và môi trường do cách thức tăng trưởng này, Trung Quốc sẽ đối mặt với khủng hoảng nghiêm trọng hơn trong tương lai.

Trong cuộc khủng hoảng hiện nay, có vẻ Trung Quốc là nền kinh tế lớn ít chịu ảnh hưởng nhất và đạt mức tăng trưởng cao nhất. Tỷ trọng của kinh tế Trung Quốc trong nền kinh tế thế giới đang tăng lên tuyệt đối và nhanh chóng.

Không chỉ có lợi thế tài chính, Trung Quốc có một thị trường trong nước năng động và đã đầu tư tốt cho cơ sở hạ tầng thông tin và vận tải.

Hơn nữa, việc đầu tư lớn vào giáo dục đại học và nghiên cứu đã chuẩn bị cho nước này có thể đi đầu trong sáng tạo công nghệ.

Nhìn chung,
tỷ trọng châu Á trong nền kinh tế thế giới sẽ tăng lên và vai trò trung tâm của Trung Quốc ở châu Á cũng lớn hơn. Tuy nhiên, nếu Trung Quốc không xử lý được vấn đề phát triển bền vững trong thời gian tới, nước này sẽ phải đối mặt với cuộc khủng hoảng xã hội và môi trường ngày một gia tăng.

Trước khủng hoảng, Trung Quốc đã có một vị thế tốt trong nền kinh tế toàn cầu. Nước này có khoảng 250 đối tác thương mại. Đầu tư của Trung Quốc ở châu Mỹ Latinh và châu Phi đã tạo nên thị trường và nguồn cung cấp nguyên liệu thô mới. Từ năm 1997 đến 2006, thương mại của Trung Quốc với châu Mỹ Latinh đã tăng 978% và với châu Phi tăng 838%, cao hơn nhiều so với mức tăng thương mại chung.

Tuy nhiên, tăng trưởng thương mại của Trung Quốc với các khu vực khác cũng rất ấn tượng, đều tăng 500 – 600%, trong đó mức tăng thấp nhất là với châu Á. Đương nhiên, thương mại với châu Á đã có xuất phát điểm cao. Bằng việc xây dựng thị trường và nguồn cung không chỉ ở các nước láng giềng và thị trường đang phát triển mà vươn ra ngoài thế giới, Trung Quốc đã giảm thiểu được tác động từ một vùng kinh tế cụ thể và tăng cơ hội phát triển cho mình.

Cả Việt Nam và Trung Quốc đều đối mặt với thách thức về việc tổ chức lại khu vực, nhưng ở mức độ khác nhau. Với Trung Quốc, thách thức quan hệ đa vùng. Trung Quốc đồng thời phải xử lý quan hệ với Đông Bắc Á, Đông Nam Á và Trung Á. Vị trí của Trung Quốc là trung tâm của nền kinh tế châu Á và là thị trường hứa hẹn nhất để thúc đẩy Trung Quốc ở vị trí lãnh đạo khu vực và nêu những mối quan tâm và ý tưởng của nước này đối với cấu trúc toàn cầu.

Chiến thắng của Đảng Dân chủ ở Nhật trong cuộc bầu cử tháng 8/2009 tạo điều kiện để Trung Quốc có thể hợp tác chặt chẽ hơn với Nhật Bản trong các sáng kiến khu vực. Với Vịêt Nam, nhiệm vụ khu vực quan trọng nhất là củng cố ASEAN, cả nội bộ ASEAN cũng như quan hệ hợp tác với Trung Quốc và Ấn Độ.

Brantly Womack (H.Phương lược dịch) – TVN

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *