(TuanVietNam) – Khi Trung Quốc nổi lên với vai trò là nhà xuất khẩu lớn nhất toàn cầu cũng là thời điểm thị trường thế giới sụp đổ. Cỗ máy xuất khẩu khổng lồ bỗng dưng ngưng trệ. Chính phủ Trung Quốc đã đưa ra các giải pháp khẩn cấp để hồi sức cho tiêu dùng và đầu tư, nhưng liệu có đủ để kích thích tăng trưởng đáp ứng kì vọng của thế giới và người dân Trung Quốc hay không?

Khủng hoảng toàn cầu là hồi chuông báo động đối với cải cách kinh tế của Trung Quốc (Nguồn: visitbulgaria.info)

 
Hay và dở

Nhìn lại những năm trước, một nửa sản lượng của Trung Quốc đổ vào đầu tư và xuất khẩu. Nhưng giờ đây, những số liệu kinh tế mỗi tháng không khỏi gây sốc : Xuất khẩu tháng 1 sụt 18% so với năm trước, nhập khẩu còn đáng báo động hơn – giảm 43%. Sự sụt giảm này dự đoán tương lai không hề sáng sủa cho những tháng sắp tới. Chính phủ Trung Quốc ước tính sẽ có khoảng 20 triệu công nhân mất việc trong các ngành như chế biến hay xây dựng.

Khi nhu cầu nhập khẩu của Mỹ và các nước nhập siêu khác đột ngột giảm cũng là lúc lượng xuất khẩu của Trung Quốc giảm theo, gây ra hiệu ứng domino cho ngành xây dựng cả nhà máy cũng như khu dân cư. Tăng trưởng đầu tư của ngành địa ốc nhanh chóng bị san phẳng trong những tháng cuối năm 2008. Sản lượng thép giảm 20%, điện 10%. Đây là những dấu hiệu rõ ràng của mặt trái của mô hình tăng trưởng cũ dựa trên xuất khẩu và đầu tư.

Dù hiện tại có đau đớn đến mấy, song rất cần phải chấn chỉnh để đảm bảo cho sự phát triển bền vững. Điều quan trọng là làm thế nào để tiến hành các biện pháp này sao cho chúng không quá vội vàng hay đột ngột. Chính phủ Trung Quốc đã nhanh chóng tung ra gói kích thích 4.000  tỷ nhân dân tệ, tương đương với 586 tỉ đô-la, phần lớn tập trung vào các dự án cơ sở hạ tầng.

Một số người chỉ trích đây là nỗ lực nhằm quay lại mô hình tăng trưởng cũ, nhưng điều này chưa thỏa đáng, bởi lẽ : Đã có những nỗ lực duy trì xuất khẩu, nhưng không phù hợp trong bối cảnh hiện nay của toàn cầu. Và chương trình hạ tầng cơ sở bao gồm nhiều dự án nhằm kích cầu và tăng chất lượng cuộc sống : đường ray tốc độ cao, phương tiện giao thông thành thị và xử lí nước thải.

Tuy nhiên, các chi tiết chưa được hoàn tất, và gói kích thích này cũng ẩn chứa một vài rủi ro. Vào thời kì khủng hoảng tài chính châu Á hơn 10 năm trước, Trung Quốc cũng kích thích kinh tế bằng liều thuốc tương tự : các dự án hạ tầng cơ sở nhằm xử lí các nút thắt cổ chai của đường xá, cầu cảng, sân bay và điện.

Hiện giờ, các nút thắt đã được giải tỏa, nhưng một vài chính phủ địa phương vẫn không từ chối các dự án mới, cho dù chúng không thực sự có tác động đáng kể. Vì thế, việc tập trung nguồn lực của chương trình kích thích vào những nhu cầu thiết thực chính là một thách thức.

Một lo ngại nữa về gói kích thích này là mục đích của nó trong việc giới hạn những mất mát trong ngành công nghiệp. Dĩ nhiên, chính phủ Trung Quốc muốn tránh để các ngành này trượt dốc quá nhanh. Nhưng qua thời gian, người ta sẽ muốn ngành công nghiệp giảm tương đối và mô hình tăng trưởng chuyển dịch.

Nửa kia của GDP Trung Quốc thể hiện sự tiêu dùng. Một nửa dân số sống ở vùng nông thôn chỉ tiêu dùng 9% GDP, nửa còn lại ở thành thị xài tới hơn 3 lần như thế (26%.) Tiêu dùng chính phủ – bao gồm tiêu dùng công trong y tế và giáo dục – chỉ chiếm 13%. Nhưng việc đảm bảo cho phúc lợi của người dân, đồng thời tăng trưởng lâu dài, phụ thuộc nhiều vào việc tăng con số này.

Chính phủ Trung Quốc có một số biện pháp trong các lĩnh vực này như : các chương trình trợ cấp cho các thiết bị gia dụng ở nông thôn, kích thích ngành địa ốc cùng với việc mua đồ dùng gia đình, chưa kể đến việc dành 850 tỉ nhân dân tệ trong vòng 3 năm để đưa bảo hiểm sức khỏe tới 90% dân số.

Các chương trình này đều có định hướng đúng, và chúng đủ tầm cỡ để đảm bảo mức tăng trưởng khỏe mạnh. Sẽ là khó để tách tăng trưởng khỏi gia tăng tiêu dùng chỉ trong vòng một năm. Nếu tiêu dùng nông thôn tăng 10%, yếu tố thuận lợi cho môi trường đang thu hẹp, sẽ tăng 1% điểm cho tăng trưởng GDP. Nếu tiêu dùng chính phủ tăng 20%, tăng trưởng sẽ tăng 2.6%.

Tất cả những điều trên góp phần tạo nên sự bất an về tỉ lệ tăng trưởng năm nay của Trung Quốc. Quan điểm được nhất trí là quý IV năm 2008 và quý I năm 2009, nền kinh tế sẽ chạm đáy, cho dù nếu tỉ lệ tăng trưởng quý đầu năm nay thấp hơn quý cuối năm ngoái 6.8%. Dự đoán tăng trưởng năm 2009 vẫn là 7%.

Việc cần làm

Dự đoán tăng trưởng kinh tế Trung Quốc liên tục giảm xuống trước tình hình không mấy khả quan của viễn cảnh kinh tế. (Nguồn : YaleGlobal)

 
Nhiệm vụ đầu tiên của Trung Quốc là hạn chế sụt giảm tăng trưởng. Có một số tiên đoán tiêu cực là tăng trưởng của Trung Quốc sẽ giảm xuống 2 hoặc 3% trong năm 2009. Đó là sẽ là sốc đối với niềm tin toàn cầu và cũng đánh mạnh vào các quốc gia đang phát triển xuất khẩu hàng tới Trung Quốc. Tư tưởng tiêu cực này ngầm định rằng, đầu tư thương mại sẽ giảm mạnh trong hoàn cảnh này, dù đầu tư công vào cơ sở hạ tầng có được cải thiện, kết quả vẫn sẽ là tăng trưởng ở con số không.

Nhưng Trung Quốc cũng bước vào cuộc khủng hoảng này với tình hình tài chính khá vững mạnh, vì thế, Trung Quốc có lợi thế tăng chuyển giao qua sự hỗ trợ thu nhập khiêm tốn và các chỗ dựa an toàn khác, đẩy mạnh giáo dục và y tế và xúc tiến các dự án cơ sở hạ tầng. Vì thế, nếu tăng trưởng tiếp tục đình trệ, có lẽ Trung Quốc nên “nghĩ lớn” đối với các chương trình chính phủ và chi tiêu năm nay.

Nhiệm vụ thứ hai là duy trì chế độ thương mại và tìm kiếm cơ hội để tự do hóa hơn nữa. Giao dịch thương mại của Trung Quốc khá rộng mở so với các nước đang phát triển khác. Qua những cam kết với Tổ chức Thương mại Thế giới, quốc gia này đã đi những bước đầu tiên trong việc mở rộng thị trường dịch vụ. Đó là bước đi khôn ngoan để phát triển mảng thị trường này, bao gồm dịch vụ tài chính, hậu cần, hàng không, truyền thông, điện thoại và vận tải. Trên thực tế, điều này đòi hỏi Trung Quốc mở cửa hơn nữa đối với đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.

Việc tự do hóa có thể là bước đi táo bạo trong thời kì khủng hoảng hiện nay. Có hai lí do thuận lợi để Trung Quốc xem xét :

Thứ nhất, việc cân bằng lại toàn cầu sẽ dần dần khiến thặng dư thương mại của Trung Quốc giảm dần. Nếu nhập khẩu dịch vụ tăng nhanh thì việc điều chỉnh có thể tiến hành song song với mở rộng xuất khẩu hàng chế biến. Tuy nhiên, nếu nhập khẩu không tăng thì việc điều chỉnh có thể ép ngành chế biến giảm sút lớn.

Thứ hai, phần lớn tăng trưởng của Trung Quốc trong tương lai sẽ dựa vào các ngành công nghiệp dịch vụ. Trong chế biến, Trung Quốc đã sử dụng thương mại và đầu tư nước ngoài để tạo ra các thị trường có tính cạnh tranh cao với mức tăng trưởng năng suất cao. Tuy nhiên, ngành dịch vụ vẫn còn tụt lại phía sau và còn kém hiệu quả.

Việc mở rộng cửa hơn và yếu tố cạnh tranh sẽ tạo ra động lực cho ngành dịch vụ giống như trong chế biến. Nếu thiếu đi động lực này, ngành dịch vụ cũng sẽ nối bước tăng trưởng trong việc xuống dốc “không phanh.”

Sự phát triển lâu bền của nền kinh tế Trung Quốc và hệ thống kinh tế toàn cầu phụ thuộc nhiều vào việc Trung Quốc có thực hiện thành công các thay đổi này hay không. Phát triển dịch vụ không những khắc phục sự bất cân đối trong nền kinh tế Trung Quốc, mà nó còn tạo ra việc làm, xoa dịu lo ngại của người dân và góp phần vào việc xoay ngược tình thế không mấy khả quan của kinh tế thế giới.

Catherine Trần – Theo TVN

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *