Một trí tuệ lớn, theo hành trình 30 năm xa xứ, bên cạnh một trái tim yêu nước lúc nào cũng nồng nàn, nơi một con người đã chọn tên cho mình là Nguyễn Ái Quốc. Một con người, kể từ lúc ra đi năm 1911, cho đến khi qua đời, năm1969, không lúc nào không tâm niệm:  “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi – đấy là tất cả những gì tôi muốn, đấy là tất cả những gì tôi hiểu”.

Ra đi vào tháng 6/1911 từ cảng Sài Gòn; về đến địa đầu Pác Bó vào tháng 2/1941, Nguyễn Ái Quốc đã dành trọn 30 năm đi tìm đường, 30 năm của tuổi trẻ, tuổi lập thân – từ 20 đến tuổi 50, mới có thể đặt chân lên đất quê hương:

 

Bác đã về đây, Tổ quốc ơi!
Nhớ thương hòn đất ấm hơi Người
Ba mươi năm ấy, chân không nghỉ
Mà đến bây giờ mới tới nơi!

 

                                                                                                                                                  (Tố Hữu)

Phải 30 năm Bác mới có thể về đất nước để khởi động một sự nghiệp vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc – đó là Cách mạng tháng Tám 1945, lật đổ hai tầng áp bức Pháp – Nhật, xóa bỏ nền thống trị của phong kiến kéo dài hàng nghìn năm mà dựng nên nền Dân chủ Cộng hòa.

Phải một cuộc đi 30 năm, phải sau 30 năm trong thân phận và trong tư cách một người con xa xứ, Bác mới có thể về nước, bởi phải sau 30 năm, đất nước mới đến được với thời cơ cách mạng. 

 



Nguyễn Ái Quốc phát biểu tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ 18 đảng Xã hội Pháp (12/1920) 

 

Phải 30 năm, bởi chàng trai họ Nguyễn phải đảm lĩnh một sứ mệnh quá lớn, so với tất cả các bậc tiền bối trong lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc, và tất cả các bậc cha chú trước mình, gồm nhiều chục các tên tuổi lớn trong phong trào chống Pháp nổi lên hết lớp này đến lớp khác, kể từ khi thực dân Pháp nổ súng vào Đà Nẵng năm 1858 đến kết thúc phong trào Cần Vương của Phan Đình Phùng năm 1897. Và tiếp đó là các lãnh tụ của phong trào Duy Tân, Đông Du và Đông Kinh Nghĩa Thục, trong suốt thập niên nửa đầu thế kỷ XX, với hai gương mặt tiêu biểu là Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh. Có thể nói, tất cả các bậc tiền bối của Nguyễn cho đến hai cụ Phan, ai cũng có một lòng yêu nước nồng nàn, một trái tim lớn dành trọn vẹn cho nước, cho dân. Nhưng tất cả đều thất bại. Bởi họ vẫn còn thiếu một nhân tố quyết định khác: đó là một trí tuệ lớn. Lịch sử cho đến lúc này cần đến một trí tuệ lớn; bởi chủ nghĩa thực dân phương Tây là một kẻ thù hoàn toàn khác với các thiên triều phương Bắc; bởi trước một kẻ thù đã chuyển từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa đế quốc, với thuốc súng và chiến thuyền, với một nền văn minh cơ khí phát triển rất cao thì có “hỏa mai” và “con cúi” nào của các nghĩa binh Cần Giuộc, hoặc “đại bác” “thần công” nào của Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu chống lại nổi!

Một trái tim yêu nước lớn không đủ; phải có một trí tuệ sáng suốt mới mong tìm được lời giải cho câu hỏi lớn của dân tộc. Và khi lịch sử đặt ra vấn đề thì cũng đã tiềm tàng khả năng giải quyết nó – như một ý lớn của Mác. Đó là sự xuất hiện chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành, với một câu hỏi được nung nấu từ tuổi thiếu niên: “Khi tôi độ 13 tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Đối với chúng tôi, người da trắng nào cũng là người Pháp. Người Pháp đã nói thế. Và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau những chữ ấy?”.

Kể từ đây là sự hình thành, từng bước và vững chắc, một trí tuệ lớn, theo hành trình 30 năm xa xứ, bên cạnh một trái tim yêu nước lúc nào cũng nồng nàn, nơi một con người đã chọn tên cho mình là Nguyễn Ái Quốc. Một con người, kể từ lúc ra đi năm 1911, cho đến khi qua đời, năm1969, không lúc nào không tâm niệm:

“Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi – đấy là tất cả những gì tôi muốn, đấy là tất cả những gì tôi hiểu”.

“Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc – đó là Tổ quốc được độc lập, nhân dân được tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.

“Nước có độc lập mà dân không được tự do thì độc lập ấy chẳng có ý nghĩa gì”…

***

Một cuộc ra đi từ tuổi 21, và kéo dài 30 năm. Hãy thử đi sâu vào cuộc hành trình vĩ đại ấy, để thấy có cái gì là mới, là khác, trong so sánh với bất cứ cuộc đi nào của các anh hùng, chí sĩ trong lịch sử, và trong bối cảnh nửa đầu thế kỷ XX.

Đó là cuộc ra đi trong tối tăm trời đất, khi tất cả các phong trào chống Pháp kéo dài từ nửa sau thế kỷ XIX cho đến hai cụ Phan và người anh hùng Yên Thế Hoàng Hoa Thám đều bị dập tắt; và tất cả các thủ lĩnh đều bị án tử hoặc bị tù đày.

Đó là cuộc ra đi của một thân phận nô lệ, một người con mất nước; tên nước Việt Nam không còn trên bản đồ, mà chỉ còn là ba xứ trong cộng đồng Đông Dương (Indochine) gồm năm xứ là Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ, Ai Lao và Cao Miên. Nước không còn tên, nên anh cũng không cần có tên riêng. Anh sẽ phải thay tên, đổi họ nhiều lần, để cuối cùng dừng lại ở một cái tên được chọn là Nguyễn Ái Quốc.

Đó là cuộc ra đi hướng về phương Tây, chứ không phải là phương Đông như con đường của Phan Bội Châu để đến với người anh em đồng văn, đồng chủng là Nhật Bản lúc này đã thuộc hàng ngũ đế quốc.

Đó là cuộc ra đi một mình, giữa bốn biển năm châu, giữa đại dương sóng cả. Để sống, để tồn tại, để có thể học hỏi, xem, nghe, tích lũy, anh phải làm đến 12 nghề – chủ yếu là lao động chân tay, trong đó có một nghề được anh ghi vào căn cước – đó là thủy thủ.

Làm thủy thủ, hải trình đầu tiên của anh kéo dài trên sáu năm, cập khắp các bến bờ của nhiều lục địa, với ý thức, trước hết phải tìm hiểu thế giới thuộc địa trên các miền đất anh được ghé qua, như Ấn Độ, châu Phi, châu Mỹ… – nơi cư ngụ của những “người cùng khổ”. Sáu năm trên hành trình đó anh đã hiểu được một sự thật lớn – đó là số phận của người dân thuộc địa trên toàn thế giới, trong đó có đồng bào quê hương anh.

Sau sáu năm trên khắp các lục địa anh mới về Paris, là nơi anh đã có chủ định tìm đến như điều tâm niệm ở tuổi 13. Paris, với tư cách là sào huyệt của chủ nghĩa tư bản hiện đại và là trung tâm của phong trào vô sản thế giới. Từ Paris, anh được tiếp xúc với các trí thức tiến bộ trong các phong trào cánh tả như Pôn Laphacgiơ, Giăng Lôngghê (cháu ngoại Mác), Macxen Casanh, Pôn Vayăng Cutuyarie, Môngmutxo… từ đó mà thực hiện một bước chuyển căn bản để trở thành một trí thức cách mạng Việt Nam, một nhà văn hóa Việt Nam chính trên đất Pháp – với những trước tác lên án chủ nghĩa thực dân và sự hủ lậu của phong kiến Nam triều kể từ báo Người cùng khổ (Le Paria), kịch Con rồng tre… đến Bản án chế độ thực dân Pháp. Cũng ở Paris, Nguyễn đã viết nhiều truyện, ký gắn với phong cách hiện đại – nhờ học tập cách viết của L.Tônxtôi và A.Phơrăngxơ.

Nhưng, trước hết, ở Paris Nguyễn đã tiếp nhận Đề cương các vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin, nó là chiếc cẩm nang thần kỳ để cứu dân tộc; và tham gia Đại hội thành lập Đảng Cộng sản Pháp.

Ở Paris, kể từ 1919, khi trình Hội Quốc Liên (tức Liên Hiệp Quốc bây giờ) bản Yêu sách tám điểm của nhân dân Việt Nam, dưới tên ký Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn đã bắt đầu một sự nghiệp viết nhằm lên án chủ nghĩa thực dân, cảnh tỉnh thế giới phương Tây, thức tỉnh thế giới thuộc địa. Một sự nghiệp viết gắn bó và phục vụ cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc kể từ Bản yêu sách tám điểm – 1919, qua Tuyên ngôn độc lập – 1945, đến Di chúc – 1969 có độ dài 50 năm.

Huế, 26/5/2011 GS Phong Lê 

(Theo phunuonline)

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *