![]() |
Đạo diễn Trần Văn Thủy |
– Ông có chút trải nghiệm hoặc quan tâm đến vấn đề chất độc da cam trước Hội thảo?
– Có, cũng như hầu hết những người đã dính líu vào chiến tranh, đã vượt Trường Sơn và sinh sống dưới những cánh rừng vào những năm “chất độc hóa học” – còn gọi là “chất diệt cỏ”, “chất độc da cam” – bị rải theo kiểu trải thảm ở miền Nam Việt Nam.
Đó là những cánh rừng trụi lá, cỏ cây chuyển sang màu tím, màu đen, khô khốc, dựng lên nền trời một bức tranh chết chóc. Bụi hóa học như phấn trắng phủ lên tàn cây, ngọn lá héo rũ. Lá “rau tàu bay” – một loại thực phẩm tự nhiên của chúng tôi – cũng không còn ăn được nữa. Những khúc suối đục màu trắng sữa. Vào thời điểm ấy, 1966, 1967, 1968… quả thật, chúng tôi chưa hề biết gì về cái bi thảm do hậu quả của nó gây ra sau này.
– Sau này thì sao, ông đã thấy những gì?
– Mọi người đã thấy. Thật là đau đớn và khủng khiếp. Nhân đây, tôi cũng muốn được nói thêm rằng : Sau chiến tranh, gọi là “thời hậu chiến”, trong không khí tưng bừng như bị bỏ bùa, người ta chỉ tính đếm, biểu dương, ngợi ca những cái “được” sau chiến tranh. Ít có mấy báo cáo, thống kê, nghiên cứu những cái “mất” vì chiến tranh.
Theo tôi, cái “mất” cũng lớn lắm. Chưa ai có đủ kiên trì và lòng dũng cảm để tính đến những cái “mất” sau chiến tranh. Thôi, việc đó nếu có thể, chúng ta sẽ trở lại vào một dịp khác. Một trong những cái “mất” trong chiến tranh là di hại của sự tàn phá, về vật chất và tinh thần.
Tôi cho rằng, những gia đình bị hậu quả của chất độc da cam có cuộc sống bất hạnh, thê thảm hơn bất kì một sự bất hạnh, thê thảm nào. Giấy bút không tả được. Phim ảnh không tả được. Giá như họ chết ngay lập tức dưới bom đạn, rồi có một tấm bia, một tấm giấy khen, một nén hương mỗi dịp lễ tết thì may mắn hơn nhiều. Sống vật vờ, sinh ra những đứa con dặt dẹo, người không ra người, nỗi đau khổ khôn cùng, đằng đẵng, vô vọng.
– Xin trở lại câu hỏi : Ông đã thấy những gì?
– Tôi đã thấy nhiều gia cảnh bị chất độc da cam nhiều lần và ở nhiều nơi. Xin kể một lần, tôi cùng ba bạn trẻ, người Mỹ và hai nữ tu dòng Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ đi làm từ thiện ở các vùng quê thuộc tỉnh Thái Bình.
Cho đến bây giờ, những hình ảnh tôi thấy ngày ấy vẫn còn nguyên vẹn, như một cuốn phim quay chậm trong đầu tôi. Những bà mẹ ôm ấp những đứa con dị dạng : đầu, mắt, mũi, chân, tay dị dạng. Có đứa trẻ phải cho vào cũi, vào hầm, vớ được cái gì nhai nấy, cả quần áo, cuống chiếu, vật dụng…
Một người bạn Mỹ chứng kiến cảnh đó đã không chịu nổi. Anh ta bỏ chạy ra ngoài, leo lên xe,ôm mặt khóc. Chuyến đi ấy ám ảnh tôi trong một thời gian dài. Khi trở về gia đình, tôi nhìn các con mà lòng thầm tạ ơn Thượng đế : Các con tôi vẫn được bình thường!
Té ra, khái niệm "hạnh phúc" chẳng phải cái gì cao xa : Chỉ cần được sống như mọi người. Với các nạn nhân của chất độc da cam, họ chỉ có một khát khao tột đỉnh : con cái họ được lành lặn, đủ chân tay, mặt mũi, đủ giác quan của một con người. Đó là hạnh phúc tột đỉnh của họ. Lạy Chúa!
![]() |
Anh Nguyễn Vĩnh – một nạn nhân chất độc da cam – gần 40 năm liệt giường, thỉnh thoảng được mẹ anh – bà Nguyễn Thị Chót – khiêng ra ngoài để tắm. Ảnh triển lãm trong Hội thảo ở California của nhiếp ảnh gia Đoàn Đức Minh |
Rồi trong một chuyến đi thăm các nạn nhân chất độc da cam ở miền quê tỉnh Nam Định, nhiều cảnh ngộ đau lòng khiến tôi chợt nhớ tới tên một bài thơ nổi tiếng của một nhà thơ người Nga : “Nỗi đau khổ không phải của riêng ai”.
Tôi đã gặp ông ở nhà nghỉ ngoại ô Mạc Tư Khoa vào mùa hè năm 1977. Bây giờ, bây giờ tôi trách Si-mô-nôp, câu thơ hay của ông đã góp phần ru ngủ mọi người, yên lòng mọi người, rằng con người đã chia sẻ với nhau mọi nỗi đau, rằng “Nỗi đau khổ không phải của riêng ai”.
Cuộc đời không hẳn vậy. Cảnh ngộ của những người bị chất độc da cam, nếu chứng kiến thì Si-mô-nôp có lẽ đã phải la to lên rằng : “Hỡi các người, có thấy không : Ở đời, ai đau, người đó lãnh đủ.”
Nói như vậy, có lẽ hơi thô lỗ, nhưng nó quất vào sự ù lì, vô cảm những ngọn roi thức tỉnh. Tôi cũng đã nói như thế ở các hội thảo chất độc da cam. Và tôi còn nói thêm : “Chúng ta chớ lầm tưởng là chúng ta đã cứu vớt được ai, đã làm phúc cho ai. Chúng ta hành động, đầu tiên chỉ là để lương tâm chúng ta đỡ bị xấu hổ mà thôi”. Các cử tọa đã vỗ tay đồng tình.
Những ấn tượng từ các tham luận "da cam"
![]() |
Poster của Hội thảo với ảnh của giáo sư, nhiếp ảnh gia Nhật Bản Goro Nakamura |
– Ông có thể mô tả đôi điều về hội thảo này?
– Tên đầy đủ của Hội thảo này hơi dài dòng, là : “Chất độc da cam : Toàn cảnh – Thân thể – Hình ảnh” (Agent orange : Landscape – Body – Image), tổ chức từ ngày 7 đến 9/5 vừa qua tại Đại học California ở thành phố Riverside.
– Là của một đại học tổ chức?
– Vâng, phần đông ở Việt Nam, chúng ta không đánh giá được vị trí của các đại học Mỹ. Ở Mỹ, mỗi đại học là một trung tâm văn hóa, xã hội, chính trị. Nói không quá, nó là một vương quốc với nhiều ý nghĩa.
Tại hơn 30 đại học Mỹ tôi đến thuyết trình gần 100 buổi ở những chuyến đi trước vào năm 2002 – 2003, có nhiều điều làm tôi ngạc nhiên. Đại học Mỹ thường là những ngòi nổ về phong trào, về tư tưởng, về xu thế xã hội. Nó cũng là ngòi nổ của các cuộc biểu tình, ủng hộ hay phản đối Chính phủ, Tổng thống và là nơi đào tạo ra những nhân vật quan trọng cho tương lai.
Tôi nhớ lại khi bắt đầu buổi thuyết trình ở Đại học Haward, tôi nói : “Thưa các giáo sư, các cựu chiến binh Mỹ đã tham chiến tại Việt Nam và thưa các bạn! Tôi vinh hạnh đứng nói chuyện tại đây, nơi đào tạo ra những người cai trị thế giới… ”
Như vậy ở Mỹ, xin chớ xem thường các sinh hoạt, hội nghị, hội thảo ở các đại học. Hơn nữa, Đại học Riverside là một đại học có nhiều chương trình, nhiều giáo sư nghiên cứu về Việt Nam : Christina Schwenkel, David Biggs, Lan Duong và Maria Lam. Bốn người này đều đã sang nghiên cứu tại Việt Nam và nói được tiếng Việt. Chính họ là những người đứng ra toan tính mọi chuyện để tổ chức thành công hội thảo này trong thời buổi kinh tế Mỹ đang suy thoái trầm trọng.
![]() |
Tiến sĩ Christina Schwendel – Đại học California, Riverside – chủ trì cuộc Hội thảo |
– Và những điều mà ông quan tâm trong các tham luận là gì vậy?
– Điểm chung rõ nhất của 20 tham luận, bằng vào góc nhìn khoa học, nhân văn, phân tích hậu quả tai hại, thê thảm và lâu dài của chất độc da cam, chẳng những ở Việt Nam, mà còn ở Mỹ, Hàn Quốc, Úc, Lào và những nơi khác trên thế giới. Có nhiều điều để lại ấn tượng với tôi.
Đó là bà Christina Schwenkel, người tổ chức chủ trì và hội thảo. Trước tiên, người ta cảm nhận ở bà một con người rất năng động, hiểu biết sâu sắc và tôn trọng sự khác biệt trong nhận thức.
Là giáo sư người Nhật Goro Nakamura – một người thật đáng phục với 34 năm kiên trì ghi chép, nghiên cứu về chất độc da cam. Ông có mặt và ghi hình ở Việt Nam từ Nam chí Bắc, ở Mỹ, Hàn Quốc và nhiều nơi khác. Tham luận của ông đi kèm với những bức hình ông chụp gây sự thuyết phục đặc biệt. Các cử tọa đã vỗ tay hồi lâu khi ông kết thúc tham luận.
Hay ông Phùng Tửu Bôi, đến từ Hà Nội, trình bày một cách giản dị, ôn tồn một góc nhìn từ Việt Nam. Thường thì trước đây, những tham luận đến từ Việt Nam hay mang tính chính trị, bày tỏ quan điểm lập trường, tố cáo tội ác, đòi hỏi công lý. Ông Phùng Tửu Bôi đã thuyết phục Hội thảo chỉ thuần túy vào tinh thần khoa học và nhân đạo. Tôi có ấn tượng mạnh về sự từ tốn hiếm thấy ở ông.
Bà Tine Gammeltoft, Đan Mạch, trong tham luận đã đưa ra những hình ảnh, bằng chứng về chất độc da cam ảnh hưởng đến thai nhi ở Việt Nam như thế nào. Nhiều phụ nữ Việt Nam vì phong tục, muốn biết sẽ có con trai hay gái nên thường siêu âm sớm. Những hình ảnh thai nhi quái dị khẳng định hậu quả của chất độc da cam ở Việt Nam là lâu dài, từ đời này qua đời khác. Bà Tine Gammeltoft nói được tiếng Việt khá thông thạo và đã từng nghiên cứu trực tiếp vấn đề này ở Việt Nam.
Tiến sỹ David Zierler làm việc ở Văn phòng Lịch sử Bộ Ngoại giao Mỹ. Tôi rất ấn tượng với câu mở đầu tham luận của ông, rằng tôi là viên chức của Bộ Ngoại giao Mỹ, nhưng tôi tới đây không phải với tư cách của Bộ Ngoại giao Mỹ, mà đây là những ý kiến của cá nhân tôi.
Ông đã thẳng thắn trình bày quan điểm của ông trước bi kịch đến từ chất độc da cam. Phải chăng, nước Mỹ trở thành cường quốc, trước tiên là ở mỗi con người được khích lệ trình bày những suy nghĩ riêng của mình, không có “vùng cấm” hoặc hàng rào chắn nào ngăn cản dân trí Mỹ.
![]() |
Bà Tôn Nữ Thị Ninh tại Hội thảo |
Bà Tôn Nữ Thị Ninh với tham luận "Chất độc da cam : Quan điểm từ phía Mỹ và Việt Nam, lý luận và thực tế". Có lẽ khỏi phải có lời khen ngợi bà mỗi khi bà xuất hiện tại các cuộc đối thoại, trước đám đông ở trong cũng như ngoài nước. Với sự hiểu biết sâu rộng, một phong cách lịch lãm (có thể nói là sang trọng), bà thuyết phục người nghe tuyệt đối.
Mỗi khi có tranh luận, ý kiến của bà thường có tính quyết định (Thí dụ, khi tôi trình bày thì có một người gốc Việt dự thính bảo rằng tôi là một đạo diễn chuyên làm phim tuyên truyền! Bà Ninh đã điềm tĩnh hỏi lại : Thế Rambo của Mỹ có phải phim tuyên truyền hay không? Cả hội trường im lặng). Tôi có thể nói một điều mà có người sẽ cho là hơi quá : Những con người như bà Ninh ra nước ngoài luôn làm chúng ta tự tin và hãnh diện.
Bà Diane Fox đã theo đuổi, nghiên cứu đề tài chất độc da cam nàu từ lâu, ở Mỹ và nhiều nhất là ở Việt Nam. Bà đã về Thái Bình, tới từng nhà các nạn nhân. Cũng vì công việc này mà chúng tôi quen biết nhau và trở thành bạn thân. Bà đã giúp chúng tôi dịch lời bình bộ phim “Chuyện từ góc công viên” qua Anh ngữ.
Trong chuyến đi Mỹ năm 2003, bà đã từng lái xe đưa tôi đi dọc bờ biển miền Tây, tới thuyết trình tại các đại học ở bang Oregon và Washington. Dịp đó, chúng tôi đã về thăm mẹ của bà ở Santa Barbara. Điều kỳ lạ là năm nay, cụ bà ấy đã 97 tuổi mà vẫn… lái xe.
Người cuối cùng có tham luận tôi muốn nói tới là một người quen biết của chúng ta, người chơi vĩ cầm ở Mỹ Lai – Mike Bohem. Chủ đề của Hội thảo là chất độc da cam, nhưng anh bạn người Mỹ này, bằng hình ảnh và lời kể, anh say sưa cho mọi người thấy những việc cần phải làm ở Mỹ Lai, những việc cần sự chung tay của mọi người Mỹ có tấm lòng : Những ngôi trường, trạm xá, công viên và cả sự hỗ trợ cho phụ nữ chăn nuôi, trồng trọt, sinh sống.
Anh ta khoe tấm thẻ được kết nạp là hội viên Hội Phụ nữ xã Sơn Mỹ – huyện Tịnh Khê – tỉnh Quảng Ngãi. Mặt Mike đỏ như quả cà chua vì tự lái xe từ thành phố Madison, tiểu bang Wisconsin, cực Bắc nước Mỹ xuống California cực Tây Nam nước Mỹ mất hơn 4 ngày đêm (!). Tôi cảm kích gặp lại Mike và ngày càng thấy rằng anh chàng này không giống ai.
![]() |
Những diễn giả tại Hội thảo (từ trái sang) : Nhiếp ảnh gia Đoàn Đức Minh, GS Goro Nakamura, ông Mike Bohem và đạo diễn Trần Văn Thủy |
Trong 4 nhiếp ảnh gia tham gia Hội thảo, ngoài ông Goro Nakamura người Nhật, 3 người còn lại đều là người gốc Việt, còn trẻ và là những người hết sức tận tâm, tự nguyện đóng góp tích cực vào công việc nhân đạo, phản ảnh những đau khổ, mất mát của những nạn nhân chất độc da cam ở cả ba miền Việt Nam. Đó là các nhiếp ảnh gia Đoàn Đức Minh, Lê Quang Đỉnh, Binh Danh.
Tôi có thiện cảm với ba nhiếp ảnh gia này không hẳn vì là những người gốc Việt, nói được tiếng Việt, mà là ở sự cảm thông, khiêm tốn, lịch thiệp. Có dịp trò chuyện nhiều hơn với Đoàn Đức Minh, tôi đã hiểu sự đóng góp của những người tình nguyện, âm thầm như các anh là rất đáng khâm phục.
Bên cạnh phần triển lãm, có phần chiếu băng hình. Đó là một phòng chiếu nhỏ quãng hơn 10 chỗ ngồi, vào cửa tự do, ai cần coi gì cứ tự bấm nút và chọn chương trình mình quan tâm. Đó là các tác phẩm của các tác giả : Vu Tran, Jakie Ochs, Lại Văn Sinh và Daniel Keller.
– Trong chuyến đi vừa rồi, ngoài Hội thảo này ra, ông có tham gia chương trình gì khác ở Mỹ không?
– Có, "chương trình" khác của tôi là… đi chơi, đi San Jose, Oakland, San Francisco, Lake Tahoe… Nhớ lại, trước khi tôi đi Mỹ lần đầu, mấy người bạn trẻ bỗ bã bảo tôi : “Già rồi! Làm thế đủ rồi! Chơi đi! Không chơi thì cũng chết”. Tôi đã tính chuyện đi chơi.
Ở Mỹ, quá nhiều nơi để chơi : Dicley land, Holywood, Las Vegas… nhưng chỉ vài tuần, tôi bừng tỉnh, tôi bị hút hồn vào công việc. Cuốn “Nếu đi hết biển” mà tôi làm và in ở Mỹ là vào hoàn cảnh ấy.
Và tôi vẫn canh cánh một điều là lo việc trợ cấp hàng tháng, thường xuyên, lâu dài cho một số cháu bị hậu quả của chất độc da cam ở quê tôi, một vùng đất còn nhiều nghèo khó.
Tham dự Hội thảo, có khách mời từ 5 nước : Đan Mạch, Hàn Quốc, Việt Nam, Mỹ và Nhật Bản. Họ là những người có nghề nghiệp khác nhau : giáo sư, cựu chiến binh, nhà nghiên cứu, nhà báo, công chức chính phủ, nhiếp ảnh gai, đạo diễn điện ảnh và người làm việc cho tổ chức phi Chính phủ. Danh sách và đề tài theo tham luận theo thứ tự bao gồm : – Diễn văn khai mạc : Christina Schwendel, Tiến sĩ, Khoa Nhân chủng học – Đại học – Việt Nam – Di sản lâu dài của chiến tranh, từ nghiên cứu đến phương pháp hóa giải – Phùng Tửu Bôi, Giám đốc Trung tâm Phát triển Cộng đồng và Bảo tồn thiên nhiên, Hà Nội. – Các bằng chứng : Chất độc da cam và những hình ảnh về môi trường từ toàn cầu – Ed Martini, Tiến sĩ, Khoa Lịch sử – Đại học Tây Michigan. – Sự hiện diện đáng sợ của chất độc da cam thông qua những hình ảnh về y tế tại Việt Nam – Time Gammeltoft, Tiến sĩ – Khoa Nhân chủng học – Đại học Copenhagen – Đan Mạch. – Sự hiện diện về mặt sinh học : Theo dõi sự di chuyển của Dioxin trong cảnh vật và cơ thể – Bà Erin Collins, Tiến sĩ – Khoa Đại Lý – Đại học California – Berkely. – Các chất diệt cỏ/lá và sự ra quyết định của Tổng thống : Sự xuất hiện và biến mất chất độc da cam, 1961 – 1975 : David Zierler, Tiến sĩ – Văn phòng Lịch sử – Bộ Ngoại giao Mỹ. – Sự bất hạnh và những nụ cười – Đoàn Đức Minh, Nhiếp ảnh gia – Atlanta, GA. – Gien bị tàn phá – Đinh Q.Lê, Nghệ sĩ hình ảnh, đồng sáng lập San Art gallery (Gallery này ở Sài Gòn). – Ảnh hưởng của chất độc da cam – Binh Danh, Nghệ sĩ – San Jose, CA. – Fiat Lus (Hãy có ảnh sáng) : Một cuộc đối thoại mang tính nghệ thuật về chất độc da cam- Debrra J.Kraus, Nghệ sĩ – Los Angeles, CA. – Chất độc da cam : Quan điểm từ phía Mỹ và Việt Nam, lý luận và thực tế – Tôn Nữ Thị Ninh, Chủ tịch Đại học Trí Việt, Nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại – Quốc hội Việt Nam. – Những trải nhiệm của tôi về chất độc da cam trong và sau chiến tranh – Trần Văn Thủy, Đạo diễn Phim tài liệu – Hà Nội. – Chất độc da cam với tư cách là một “thực tế xã hội” : Các câu chuyện, bằng chứng khoa học, luật pháp, môi trường và sức khỏe con người – Diane Fox, Tiến sĩ – Khoa Lịch sử và Nhân chủng học – Đại học Holy Cross. – Những hy vọng từ đống tro tàn Mỹ Lai – Mike Boehm, Chủ tịch Dự án Hòa Bình Mỹ Lai – – Huy động các nguồn lực nhằm phục vụ cho các giải pháp – Charles R.Bailey, Giám đốc Dự án về chất độc màu da cam/dioxin – quỹ Ford Foundation. – Chất độc da cam : Quan điểm Hàn Quốc – Chun Kyung Soo, Tiến sĩ – Khoa nhân chủng học – Đại học Quốc gia – Diễn văn bế mạc : David Biggis, Tiến sĩ – Khoa lịch sử – Đại học Những người đến hội thảo chỉ để nghe và hỏi, gồm có : cựu chiến binh Mỹ, người Mỹ gốc Việt, sinh viên từ các đại học khác, họa sĩ ở Nam Cali, hai đạo diễn đến từ New York, các giáo sư và người dân thành phố đến từ River Side.
|
Đoàn Trần Yến Nhi (thực hiện) – TVN