“Hà Nội mùa thu/ cây cơm nguội vàng/ cây bàng lá đỏ/ nằm kề bên nhau/ phố xưa nhà cổ/ mái ngói thâm nâu”… Giai điệu và ca từ mượt mà, da diết của Trịnh Công Sơn cứ cuốn hút tôi, gợi nhớ về Hà Nội, nhớ về xứ Thanh quê tôi. Có lẽ, phải đến Trịnh Công Sơn thì hình ảnh cây cơm nguội mới được “lên ngôi”, được đưa vào nhạc và thơ một cách trịnh trọng và thi vị nhất.

Hình ảnh cây cơm nguội cùng với hương vị của hoa sữa, của hương cốm mỗi độ thu về làm lòng ta lâng lâng một niềm hoài cổ. Không hiểu tự bao giờ cái tên “cơm nguội” được cha ông mình dùng đặt cho một loài cây dân dã, có sức sống mãnh liệt và khiêm nhường như vậy.

Cây cơm nguội hầu như có mặt ở nhiều tỉnh phía Bắc, nhất là ở miền trung du. Bên cổng làng xưa ở quê tô,i bên cạnh cây đa trùm bóng mát có mấy cây cơm nguội khẳng khiu mà bọn trẻ chăn trâu chúng tôi thường leo lên hái trái để bắn “ống phốc”. Trái cơm nguội già lớn hơn hạt bắp (ngô), tròn và cứng, nạp vào “ống phốc”, nhấn mạnh một cái là phát ra một tiếng kêu “pốc”, bắn đi như “viên đạn” khoảng 3, 4 mét. Lũ chúng tôi rất khoái khi tập đánh trận giả thường bắn nhau bằng loại đạn này, thích lắm. Đứa nào dính đạn là xem như thua, phải cõng đứa thắng chạy một vòng. Khi mùa thu tới, các cây bắt đầu “thay áo”. Từ màu lá xanh đậm chuyển dần sang màu vàng mơ, vàng sẫm cho đến khi lá khô và vèo theo gió nhẹ, rải đầy trên mặt đất, riêng cây cơm nguội vẫn toả tán lá xanh bất chấp quy luật của tạo hoá. Nó như lạc lõng giữa không gian đang chuyển mùa, và hình như trong nó ẩn chứa một sức sống như cây tùng, cây bách? Nhưng rồi sau Tết Trung thu, khi các cây trút hết lá thì lúc đó, toàn cây cơm nguội mới nhuốm vài lá vàng, rải rác cho đến gần Tết thì toàn cây là một màu vàng rực rồi từng chiếc lá cứ nhẩn nha lìa cành sau mỗi cơn gió nhẹ.

Ba tháng mùa đông u ám và lạnh lẽo qua mau. Những ngày áp Tết, các cây bắt đầu hồi sinh khi mưa xuân rắc bụi cùng làn gió mát. Hoa đào, hoa mơ khoe sắc, “hoa xoan rụng tím sân nhà em”. Khi các cây bắt đầu nhú lộc đâm chồi thì cây cơm nguội vẫn khẳng khiu như một gọng vó giữa trời xanh. Nó sinh sau đẻ muộn chăng? Đúng thế! Phải đến ngoài Tết Nguyên tiêu (rằm  tháng Giêng), nó mới bắt đầu nhú những lộc non, rồi những chiếc lá mỏng manh phơn phớt màu tím xuất hiện. Chẳng bao lâu, cây cơm nguội trùm một tán lá xanh mát mắt. Những chú chim khuyên, chim sâu, chào mào nhảy nhót, ríu rít trên cành, bắt sâu giúp cây chóng lớn. Trên mỗi cành, từng chùm hoa như hạt cơm nguội li ti nở rộ, một mùi hương ngai ngái, nồng nàn lan toả vào đêm. Cứ nhìn cây cơm nguội rụng lá, ra hoa, kết trái mà người ta có thể đoán biết mùa màng, thời tiết. Mẹ tôi thường bảo năm nào cây cơm nguội nhiều hoa trái là năm đó “được mùa lúa”, nó báo hiệu điềm “hên”. Theo giai thoại xưa, có một vị tướng đời Lê cầm quân đánh giặc, chẳng may bị bao vây giữa rừng xanh núi thẳm vùng Linh Sơn, khi chẳng còn gì để ăn thì bỗng nhiên gặp một vạt rừng tràn ngập một cây có nụ, hoa trăng trắng như cơm nguội. Quân sĩ nếm thử thấy có vị nhàn nhạt, hơi chát chát, mằn mặn. Ăn vào thấy bùi bùi đỡ đói. Thế là loài cây ấy đã cứu sống đoàn quân qua một vài ngày để thoát khỏi vòng vây của giặc. Vị tướng sau khi thoát nạn liền đặt tên cho loài cây ấy là cây “cơm nguội”.

“Cơm nguội” thực của đời sống đã đi vào ca dao : “Chàng ơi phụ thiếp làm chi/ Thiếp như cơm nguội đỡ khi đói lòng” để chỉ những thân phận phụ nữ thấp hèn, nhỏ bé, cam chịu dưới thời phong kiến. Còn “cây cơm nguội” mà thiên nhiên ban tặng cho con người cũng lặng lẽ dâng cho đời bóng mát, niềm vui. Sức sống mãnh liệt và cái tính “trái nết” của nó cùng sự lặng thầm của mùi hương… phải chăng cũng là biểu tượng cho tính cách của một con người khiêm nhường.

Lê Xuân – Theo SCLO

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *